Chương 7
Quả Báo Treo
Một
điều lạ lùng mà người ta có thể nhận thấy trong những trường hợp quả
báo về xác thân như chúng tôi đã nêu trên, là có đôi khi những quả báo
chỉ xuất hiện một hay nhiều kiếp sau khi cái nhân được tạo ra. Người ta
tự hỏi tại sao lại có sự đình chỉ đó, và tại sao nghiệp quả không báo
ứng ngay tức khắc như một quả banh dội lại ngay sau khi được ném vào
tường?
Dường như câu hỏi đó có nhiều cách giải
đáp. Một là: Linh hồ đã gây nhân tạo nghiệp, phải đợi đến khi có một
hoàn cảnh và thời giờ thuận tiện cho quả kia kết thành hình. Có khi phải
đợi nhiều thế kỷ mới có một cơ hội thuận tiện và trong khi chờ đợi, thì
khoảng thời gian đó được sử dụng để cải thiện cho tâm tính của đương
sự. Người ta tìm thấy một thí dụ về loại quả báo treo này trong những
tập hồ sơ Cayce về những linh hồn trước kia đã sống ở Châu Atlantide.
Khoa
học chưa bao giờ có thể xác nhận hay hoàn toàn phủ nhận sự hiện diện
của Châu Atlantide vĩ đại và cổ xưa chìm dưới đáy biển Đại Tây Dương,
mặc dầu người ta có đủ lý do để tin ở sự kiện lấy trước những bằng chứng
lịch sử, khoa học và văn hóa. Một tài liệu lịch sử quan trọng là bộ
sách "Crisias Timeus" của Platon trong đó tác giả tường thuật những điều
ông đã nghe nói về Châu Atlantidẹ Một trong những bằng chứng khoa học
thường được nêu ra là sự khám phá của các nhà bác học, nhân dịp một sợi
dây cáp (câble sous marin) đặt ngầm dưới biển Đại Tây Dương bị đứt và
chìm xuống đáy biển ở một bề sâu 3.000 thước. Khi sợi dây cáp được vớt
lên, thì nó quến theo những mẫu phún thạch (lavạ) Khi người ta quan sát
bằng kiếng hiển vi thì thấy rằng những mẫu phún thạch này ngày xưa đã
từng đông đặc lại trên đất liền, trước khi chìm xuống đáy biển.
Trong
những bằng chứng văn hóa đáng kể nhứt, thì trước hết là những chuyện
giai thoại về cuộc Đại Hồng Thủy. Người ta gặp chuyện những giai thoại
này không những trong bộ Thánh Kinh (Bible), mà còn trong những truyện
Thần Thoại tôn giáo và lịch sử của hầu hết tất cả những dân tộc cổ xưa
trên thế giới.
Kế đó là những
điểm tương đồng giữa những ngôn ngữ, văn tự và kiến trúc của Ai Cập và
Trung Mỹ, ở vào một thời kỳ mà người ta không thấy có những phương tiện
giao thông giữa hai lục địa Mỹ Châu và Phi Châu.
Tất
cả những bằng chứng kể trên có thể giúp cho người ta tin tưởng nơi sự
hiện diện của Châu Atlantide, nhưng vẫn chưa đủ để đưa đến một kết luận
chắc chắn. Dầu sao, nếu ta có phải tin nơi những cuộc soi kiếp của ông
Cayce, thì châu Atlantide đã từng có một cách hiển nhiên, không còn nghi
ngờ gì nữa. Theo ông Cayce một vài gian phòng bí mật hãy còn khóa chặt
trong Kim Tự Tháp lớn ở Ai Cập, một ngày kia sẽ có thể tiết lộ cho chúng
ta một kho tài liệu đầy đủ về lịch sử và nền văn minh của châu
Atlantidẹ Ông Cayce cho biết rằng những tài liệu đó được đem chôn giấu
trong Kim Tự Tháp, do những người dân Atlante ngày xưa di cư qua Ai Cập
trong cuộc thiên tai địa chấn lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng đã
nhận chìm châu Atlantide xuống đáy biển vào khoảng 9.500 năm trước Tây
Lịch kỷ nguyên. Ông Cayce cũng có nói rằng đảo Bimini, ở ngoài khơi tiểu
bang Florida bên Hoa Kỳ, nguyên là đỉnh ngọn núi cao ở châu Atlantide
ngày xưa. Ông cũng cho biết rằng tại nơi đó, người ta có thể tìm thấy
dưới đáy biển một ngôi đền cổ của dân Atlante, mái bầu của ngôi đền được
xây cất với những tấm kiếng thủy tinh theo một kiểu kiến trúc đặc biệt
để thâu ánh nắng mặt trời. Những cuộc soi kiếp cho biết dân Atlante ngày
xưa đã từng đạt tới một trình độ khoa học tiến bộ hơn của chúng ta ngày
naỵ Họ đã từng phát triển tới một mực rất cao các nghành điện khí, vô
tuyến điện, vô tuyến truyền hình, những phương tiện di chuyển trên không
trung, tàu ngầm, cùng phương pháp sử dụng mãnh lực của Mặt Trời và
nguyên tử lực. Họ đã từng phát minh những kỹ thuật dùng nhiệt lực, thắp
sáng, và chuyển vận tiến bộ hơn của chúng ta ngày nay.
Điều
đáng ghi nhớ là những cuộc soi kiếp của ông Cayce thường lập đi lập lại
nhiều lần rằng dân Atlante ngày xưa bị họa diệt vong vì họ đã lạm dụng
những sức mạnh kinh khủng mà họ chế ngự được. Họ dùng điện lực, khoa
thôi miên và mãnh lực của tư tưởng để đàn áp, chế ngự kẻ khác, hoặc sai
khiến chúng làm việc một cách nô lệ, hoặc để cưỡng hiếp phụ nữ và thỏa
lòng háo sắc của họ Nïười ta sẽ hiểu rằng những sự lạm dụng quyền năng
và những hành vi trái Đạo kể trên không thể cứu chuộc được một cách đầy
đủ và trọn vẹn trong những thời kỳ mà khoa học chưa được phát triển, và
người ta chưa có những kiến thức sâu rộng về khoa tâm lý hoặc khoa Huyền
Môn. Cuộc thử thách hữu hiệ nhứt để biết xem một người đã thắng được
thói ăn uống vô tiết độ hay chưa, là đặt trước mặt y những món cao lương
mỹ vị mà y ưa thích, để xem y có biết tự chủ hay không. Người ta không
thể biết đượ rằng một người đã hoàn toàn tự chủ về đường sắc dục hay
chưa, nếu y không gặp cơn thử thách: Bị cám dỗ mà vẫn không động lòng
như Thánh Antoine ngày xưa vẫn thanh tịnh giữa những giai nhân tuyệt
sắc, đáng yêu!
Cũng giống như
thế, những linh hồn đã lạm dụng những quyền năng phi thường và mầu nhiệm
nhờ sự phát triển khoa học của châu Atlantide thuở xưa, không chắc là
đã từ bỏ thói ích kỷ tham tàn và cải tạo tâm tính, nếu họ chưa gặp những
hoàn cảnh tương tự của một thời kỳ phát triển khoa học và kỹ thuật như
thời đại này, để thử thách xem họ có biết dùng những phương tiện đó với
một tinh thần xây dựng, hay là với mục đích kỷ hại nhân như thuở xưa
kia.
Sự tiến bộ từng chu kỳ của
Lịch sử đã làm cho thế kỷ 20 trở nên thời kỳ phát triển khoa học kể
trên; bởi đó những cuộc soi kiếp của ông Cayce tiết lộ cho biết rằng có
rất nhiều dân Atlantide thời cổ nay đã đầu thai chuyển kiếp vào thời kỳ
hiện tại. Những sự tiến bộ về khoa học và kỹ thuật có thể hiểu được bằng
hai cách: Trước hết, đó là do kết quả của những kinh nghiệm về mọi phát
minh khoa học mà những linh hồn mới đầu thai đã mang lại từ những kiếp
quá khứ của châu Atlantide ngày xưa; thứ hai, thời kỳ này là giai đoạn
thử thách cho những linh hồn đó để xem trong những thế kỷ trung gian, họ
đã thâu thập được những đức tính gì khả dĩ giúp cho họ chống chỏi lại
sự cám dỗ do thói ích kỷ và tàn bạo của thế hệ văn minh khoa học vật
chất đưa đến. Bởi đó, cái yếy tố căn bản nó quyết định vấn đề "Quả báo
treo" dường như là những linh hồn đã gây sự nghiệp quả xấu phải chờ đầu
thai vào một thời kỳ thuận tiện, có một nền văn minh tiến bộ thích nghị
Vấn đề này hình như cũng có liên quan đến sự tiến bộ từng chu kỳ của
lịch sử, và việc luân phiên của những nhóm linh hồn trong việc chọn lựa
những thời kỳ đầu thai chuyển kiếp xuống Trần.
Những
trào lưu chủng tộc và các sắc dân trên Địa Cầu cũng đầu thai trở lại
thế gian theo từng đợt hay từng nhóm, cũng ví như những luồng sóng dập
dồn từng thời kỳ, theo định luật Tuần Hoàn của vũ trụ. Tuy nhiên, có
nhiều đoạn trong các cuộc soi kiếp của ông Cayce chỉ rằng sự chuyển kiếp
của những nhóm thiểu số trong những luồng sóng lớn đó, và thậm chí sự
đầu thai của từng cá nhân trong những nhóm ấy, có thể không phải là do
tiền định một cách chặt chẽ và máy móc theo từng chu kỳ nhất định. Những
linh hồn và từng nhóm linh hồn không phải tái sinh trở lại một cách đều
đặn như một việc đã định sẵn. Về điểm này, cũng như trên những lãnh vực
khác của Cơ Trời máy Tạo, con người vốn có quyền tự do ý chí, và một cá
nhân hay một nhóm người đều có quyền tự do chọn lựa những thời kỳ đầu
thai tùy theo ý muốn.
Điều này
lại đưa đến một sự phức tạp mới nữa: Nếu một linh hồn cần phát triển một
đức tính trong những giao tế của y với một linh hồn hay một nhóm linh
hồn khác, có lẽ y sẽ cần trì hoãn sự đầu thai của y trong một thời gian
để đợi đến một thời kỳ được chọn lựa cho sự đầu thai chung của những
linh hồn ấy. Và nếu đó là một sự trì hưỡn lâu dài, thì trong khi chờ
đợi, linh hồn ấy có thể dùng thời gian để cố gắng phát triển một vài đức
tính mới, hoặc một khía cạnh mới nào đó về sự tiến hóa của y, và bởi đó
mới có cái hiện tượng "Quả báo treo."
Những
sự kiện kể trên nhắm vào những yếu tố bên ngoài của quả báo treo; nhưng
ngoài ra còn có những yếu tố bên trong. Một sự kiện tâm lý sau đây còn
có một tầm quan trọng tương đương, nếu không nói là lớn hơn; đó là sức
mạnh tinh thần cần thiết để chịu đựng những quả báo xảy đến. Linh hồn
phải trả quả cần có cơ hội thâu thập những đức tính cần thiết để đương
đầu với quả báo khi nó xảy đến; chứ nếu không thì quả báo nặng nề quá
sức chịu đựng cò thể làm cho đương sự bị đè bẹp, thay vì giúp ích cho sự
tiến hóa của y.
Nhiều người
bịnh tật khi được ông Cayce soi kiếp và được cho biết rằng nguồn gốc
bịnh trạng của họ được truy nguyên ra từ nhiều kiếp trở về trước, đều
lấy làm tò mò muốn biết lý do của sự trì hoãn lâu dài như thế.
Những
người muốn làm sáng tỏ vấn đề này bằng một cuộc soi kiếp thứ nhì, đều
nhận được câu trả lời giống như của cô thiếu nữ què mà chúng tôi đã kể
chuyện trong Chương Năm. Cô này hỏi: "Tại sao linh hồn lại đợi cho đến
kiếp này mới trả xong nghiệp quả đã gây ra từ thời Đế Quốc La Mã?" Cô ấy
được trả lời như sau: "Bởi vì linh hồn ấy không đủ sức trả quả sớm
hơn."
Câu chuyện ấy chỉ rõ rằng
nếu một linh hồn không đủ sức trả quả sớm hơn, đó là vì bởi một lý do
bên trong hơn là lý do bên ngoài. Trong trường hợp đó, cũng như những
trường hợp bệnh tật khác, một sự nghiên cứu tỉ mỉ về những kiếp trung
gian chỉ rằng những kiếp này là những kinh nghiệm cần thiết để giúp cho
đương sự có cơ hội thu thập thêm một vài đức tính tốt và để tiến hóa
thêm.
Thí dụ, nếu chúng ta xét
lại trường hợp của người thiếu niên 16 tuổi, bị thương nặng trong vụ tai
nạn xe hơi như đã kể trên, chúng ta thấy rằng nguyên nhân của nghiệp
quả này là do y đã gieo trong thời kỳ đế quốc La Mã. Tuy nhiên, một kiếp
đầu thai vào thời kỳ Cách Mạng ở Bắc Mỹ đã giúp cho họ có cơ hội phát
triển một vài đức tính như can đảm, yêu đời, và khả năng khai thác khía
cạnh tốt của mọi hoàn cảnh. Những đức tính đó là những điều mà y cần
dùng để chịu đựng cảnh khổ trong kiếp hiện tại, khi quả đã chín mùi và
đến kỳ phải trả.
Một thí dụ sau đây có thể giúp cho chúng ta
hiểu rõ hơn về vấn đề này: Một người kia vay năm triệu đồng của ngân
hàng để kinh doanh sự nghiệp. Ykhông thể nào trả hết số tiền đó trong
vài ngày hay một tuần lễ, hoặc một tháng sau.Vì lẽ đó, y xin hẹn đến một
kỳ hạn nào đó, thí dụ là ba năm để cho y có thời giờ dành dụm lần hồi
cho đủ số trước khi trả dứt làm một lần. Ngân hàng không thể bắt y phải
trả dứt trong một tuần lễ, vì lẽ tất nhiên là y không đủ sức trả gấp, và
đòi nợ một cách gắt gao như thế thật là không có ích gì. Có thể rằng
trên địa hạt tâm linh, sự trì hoãn thời kỳ phải trả quả, gọi là quả báo
treo, cũng diễn ra với một tinh thần đó.
Nếu
một ngày kia thuyết Luân Hồi được một số đông người thừa nhận và nếu
quan niệm về Nhân Quả được quần chúng Phương Tây cũng như Đông Phương
hiểu rõ, ít nhất trên nguyên tắc đại cương, thì vấn đề quả báo treo có
lẽ sẽ trở nên một đầu đề lo sợ cho rất nhiều người! Cái ý tưởng rằng một
hành động hung dữ độc ác trong quá khứ có thể bị quả báo đui mù, tàn
tật trong một kiếp tương lai xa hay gần, làm cho người ta cảm thấy băn
khoăn lo sợ. Đối với những người nhậy cảm và nhiều tưởng tượng, thì một
món nợ nhân quả mà họ không được biết rõ cũng ví như một lưỡi gươm của
Damoclès treo lủng lẳng trên xà nhà và chực rơi xuống đầu họ bất cứ lúc
nào. Quả báo treo có thể trở nên một sự đe dọa khủng khiếp rùng rợn
trong những năm đầu của thế hệ phổ biến về thuyết Luân Hồi, cũng như Quỷ
Satan và lửa Hỏa ngục đã từng là một mối đe dọa sợ hãi cho người đời
trong thế hệ đã qua!
Để chống
lại khuynh hướng sợ sệt đó những nhà lãnh đạo các phái Tư Tưởng Mới có
thể đi đến việc phủ nhận toàn bộ vấn đề quả báo treo, cũng như phong
trào Khoa Học Công Giáo (Science Chrétenne) phủ nhận tội lỗi, bịnh tật,
sự chết, sự lầm lạc và cõi vật chất. Những sự phủ nhận đó có một sức dẫn
dụ rất mạnh và có thể đưa đến những kết quả khá lành mạnh về đường tâm
linh. Tuy nhiên, phủ nhận vật chất, thế gian, tội lỗi và quả báo, không
có nghĩa là giải quyết được vấn đề! Bổn phận của chúng ta không phải là
dấu diếm sự thật, cũng như con chim đà điểu vùi đầu xuống đống cát; mà
là thắng đoạt, chế ngự và tổ chức lại cõi đời vật chất theo những lý
tưởng tâm linh cao cả. Phủ nhận Luật Quả Báo chẳng khác nào như không
nhìn nhận những món nợ mà mình phải trả, và những bài học mà mình phải
học hỏi, và đó là một thái độ bất lương. Kẻ nào muốn gạt gẫm hay trốn
tránh trách nhiệm, dâu đó là những trách nhiệm vật chất hay tinh thần,
không thể gây cho người khác lòng mến phục.
Thói
thường, khi người ta không thích một điều gì, người ta hay lý luận một
cách khôn khéo để phủ nhận điều ấy. Đó cũng là một sự tìm cách trốn
tránh trách nhiệm. Nhưng chúng tôi không muốn nói rằng sự dẫn dụ
(suggestion) là vô ích. Trái lại, sự dẫn dụ có thể rất hữu ích để chữa
những bịnh trạng thuộc về tâm lý. Chúng ta đã thấy trường hợp lý thú của
một trẻ em bị chứng bệnh đái dầm và phương pháp dẫn dụ để đánh tan ý
thức về tội lỗi in sâu trong tiềm thức, đã chữa cho em ấy được khỏi
bịnh.
Nếu những nhà chữa bịnh
tinh thần muốn chữa các chứng bịnh về nhân quả, thì phương pháp điều trị
là làm cho bịnh nhân thành thực nhìn nhận những tội lỗi cũ; bày tỏ một ý
muốn chân thành cứu chuộc những tội lỗi và sau cùng, tỏ ra một sự cương
quyết làm việc phải và hướng thiện theo đường lối ngược chiều với tội
lỗi đã gây ra. Như vậy, các quả báo sẽ lần lần tiêu tan, và bịnh sẽ
thuyên giảm.
Nếu chúng ta chấp
nhận thuyết Luân Hồi, thì ta phải nhìn nhận rằng nhân loại chưa được
tiến hóa cao về phương diện tâm linh, và bởi đó con người phải chịu quả
báo xấu xa trong những kiếp tương lai. Nhưng điều đó không là cho ta quá
băn khoăn lo sợ, vì hai lý do:
Một
là: "Mỗi ngày chỉ chịu đựng vừa đủ sự khổ nhọc của nó!" (A chaque jour
suffit sa peinẹ) Câu tục ngữ này có nghĩa là: Ta nên sống mỗi ngày một
cách bình tĩnh và không nên quá băn khoăn lo lắng. Chẳng những thế, mỗi
kiếp sống cũng vậy; dầu cho ta có bị những khó khăn đau khổ như thế nào,
ta cũng phải sống trọn kiếp của mình với một niềm tin tưởng chắc chắn
rằng số phận của mỗi người là rất công bình, và ta có đủ sức chịu đựng
mọi điều xảy đến. Không bao giờ ta phải trả một quả báo nào mà ta không
đủ sức chịu đựng.
Hai là: Dầu
cho ta có tin ở Luật Nhân Quả hay không, ta cũng phải thấy rằng tương
lai là một cái gì mà ta không thể biết một cách chắc chắn. Và ta biết
rằng những tai họa xảy đến cho ta là do lẽ nhân quả báo ứng chớ không
phải do sự ngẫu nhiên tình cờ, thì những nỗi băn khoăn sợ sệt của chúng
ta cũng sẽ giảm bớt, vì lý do giản dị là quả báo xảy đến chỉ do một định
luật Công Bằng. Con người thường hay sợ sệt những tai họa sẽ đến, nhưng
nếu một sự việc xảy đến một cách công bình, để cho ta học một bài học
hay và mở rộng tầm kiến thức của mình thì đó không phải là một điều đáng
sợ. Một người lương thiện nếu mắc nợ thì lo trả; y làm việc một cách
siêng năng chăm chỉ để trả góp đúng kỳ hạn vào đầu tháng. Ykhông phải
lúc nào cũng lo lắng sợ sệt cái ngày trả nợ sẽ đến. Yđem hết tinh thần,
sức lực, cố gắng làm việc để có thể trả dứt nợ nần.
Vì
bởi tầm ý thức của chúng ta có giới hạn, nên chúng ta không biết được
rằng mình đã mắc phải bao nhiêu món nợ quả báo trong thời kỳ dĩ vãng xa
xăm. Nhưng chúng ta nên có cái thái độ thẳn thắn của một người lương
thiện, để chấp nhận những món nợ của chúng ta với một sự thiện chí và
thành thật muốn trả nợ.
Sự chấp
nhận định luật Nhân Quả và đức tin nơi một sự Công Bằng Thiêng Liêng,
phải là cái thái độ của chúng ta đối với mọi quả báo xảy đến. Trong một
Vũ Trụ công bằng, trật tự và tốt lành, mà định luật Luân Hồi đã tiết lộ
cho chúng ta thấy, thì tuyệt nhiên ta không có gì cần phải sợ sệt hết
cả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét