Chương 2
Ông Edgar Cayce Dùng Thần Nhãn Để Khám Bệnh
Thật
là một điều lý thú mà biết rằng năng khiếu Thần Nhãn có thể giúp cho ta
làm được những điều phi thường. Nhưng càng lý thú hơn nữa khi ta được
biết rằng trong thời đại này có một người đã dùng năng khiếu Thần Nhãn
một cách hữu ích trên địa hạt sưu tầm cũng như trên phương diện thực tế.
Người
ấy là ông Edgar Cayce. Người ta gọi ông Cayce trong những năm cuối cùng
của đời ông, là "Con người phi thường ở Virginia Beach". Đó là một danh
hiệu phỉnh lừa, vì tùy rằng có hằng trăm người đã được ông chữa khỏi
bịnh trong những điều kiện thật là lạ lùng, nhưng ông không phải là một
người làm "Phép lạ" hiểu theo ý nghĩa thông thường của chữ này. Không hề
có chuyện đặt bàn tay truyền điện, hay làm cho bịnh nhân quăng nạng gỗ
sau khi đã sờ nhẹ vào manh áo của y. Những sự "Nhiệm màu" của ông Cayce
chỉ là sự khám đúng căn bịnh, mà thường là trong khi bịnh nhân ở cách xa
ông đến hằng ngàn cây số! Ngoài ra, năng khiếu Thần Nhãn của ông chỉ
hoàn toàn khai mở trong giấc ngủ thôi miên, đó là một điều đáng được sự
chú ý của những nhà chữa bịnh theo khoa Tâm lý, thường dùng giấc ngủ
thôi miên để chữa bịnh hoặc làm phương tiện sưu tầm về cõi tiềm thức của
con người.
Một trong những ví
dụ đáng kể nhất về cách xử dụng Thần Nhãn của ông Cayce là trong trường
hợp sau đây: Một người con gái ở Selma, thuộc tiểu bangAlabama Hoa Kỳ,
thình lình bị mất trí và được đem vào một nhà thương điên. Người anh cô
ta kinh hoảng, bèn nhờ cậy ông Cayce giúp đỡ. Ông Cayce bèn nằm trên
giường, thở vài hơi dài và sâu, đoạn ông ngủ thiếp đi. Kế đó, ông chịu
sự dẫn dụ thôi miên của một người bảo ông nhìn vào thể xác của người
thiếu nữ và khám bịnh cho cô ấy. Sau một lúc im lặng, ông Cayce bắt đầu
nói, cũng như bất cứ mọi người nằm trong giấc thôi miên khi họ được lịnh
truyền của người dẫn dụ. Tuy nhiên, có điều khác hơn những người
thường, là ông Cayce bắt đầu diễn tả tình trạng thể chất của người bịnh,
dường như cặp mắt ông có quang xuyến X. Ông cho biết rằng người con gái
ấy có một cái răng cấm mọc ngược và cấn lên một đường gân thông lên bộ
óc. Ông bảo phải nhổ cái răng ấy để cho đường gân kia được giải tỏa,
khỏi động lên tới óc, và đem bịnh nhân trở lại trạng thái bình thường.
Theo sự chỉ dẫn của ông Cayce, người ta mới xem trong miệng người con
gái thì thấy có một cái răng cấm mọc ngược. Sau khi được đem đến cho một
vị nha sĩ nhổ răng thì người con gái liền hết bịnh điên.
Một
thí dụ khác rất lạ lùng, là một người thiếu phụ ở tỉnh Kentucky bên Hoa
Kỳ sinh ra một đứa con thiếu tháng. Đứa trẻ ấy ốm đau èo uột luôn. Khi
được bốn tháng, nó bị chứng kinh phong giựt rất nặng đến nỗi ba bác sĩ
săn sóc cho nó (trong đó có người cha của đứa trẻ) đều lo ngại rằng nó
sẽ không qua khỏi ngày hôm ấy. Người mẹ đứa trẻ đã tuyệt vọng, bèn nhờ
ông Cayce khám bịnh cho nó. Trong giấc thôi miên, ông Cayce bảo đem cho
nó uống một liều thuốc belladone và kèm theo sau đó, cho uống một liều
thuốc trừ độc. Những vị bác sĩ khác đều phản đối cách chữa bịnh này, vì
belladone là một thứ thuốc độc, nhưng bà mẹ đứa trẻ không nghe và nhất
định tự mình đưa thuốc ấy cho con mình uống. Ngay tức khắc, chứng kinh
phong dứt hẳn. Sau khi cho đứa trẻ uống thêm một liều thuốc trừ độc, đứa
trẻ duỗi thẳng tay chân và ngủ một giấc ngon lành. Nó đã được cứu sống
và đã khỏi bịnh.
Những thí dụ
trên đây, cùng với hàng trăm thí dụ khác, không phải là những trường hợp
chữa khỏi bịnh bằng "đức tin". Những trường hợp mà người bịnh được chữa
khỏi cấp thời như những trường hợp kể trên chỉ là một số ít. Trong tất
cả những trường hợp khác thì người bịnh được điều trị một cách cụ thể,
có khi lâu dài, và cách điều trị gồm có: Thuốc men, giải phẫu, kiêng cữ
món ăn, dùng sinh tố, chữa bằng điện, thoa bóp hay tự kỷ ám thị ...
Những
trường hợp chữa bịnh bằng Thần Nhãn của ông Cayce đều được ghi chép
trong những hồ sơ và được giữ gìn cẩn thận. Tất cả có đến ba chục ngàn
hồ sơ được cất giữ ở Virginia Beach, và sẵn sàng được dùng làm tài liệu
cho những ai muốn khảo cứu sưu tầm.Những hồ sơ đó gồm có những tờ biên
bản các cuộc khám bịnh bằng Thần Nhãn, có kê khai ngày tháng rõ ràng;
những thơ thỉnh cầu của bịnh nhân ở xa hoặc của thân quyến người bịnh;
những bức thơ bày tỏ sự biết ơn của những bịnh nhân được chữa khỏi ở
khắp nơi trên thế giới; những giấy chứng minh của các bác sĩ; và những
bản tốc ký chép lại những lời của ông Cayce thốt ra trong giấc ngủ thôi
miên. Những tập hồ sơ này gồm thành một kho văn kiện và tài liệu vĩ đại
để chứng minh sự thật về hiện tượng Thần Nhãn (Clairvoyance).
Ông
Cayce sinh năm 1877 tại Hopskinville, tiểu bang Kentucky, Hoa Kỳ. Ông
sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo và thất học. Ông theo học
trường làng đến bực tiểu học, và mặc dầu trong thuở thiếu thời, ông đã
tỏ ý muốn trở nên một giáo sĩ, nhưng hoàn cảnh không cho phép ông tiếp
tục theo đuổi việc học vấn. Đời sống ở nông trại không thích hợp với
ông; ông bèn ra ở tỉnh thành, trước hết ông làm nhân viên phụ trách cửa
hàng bán sách, sau đó ông làm nhân viên một hãng bảo hiểm.
Năm
ông 21 tuổi, một việc xảy ra bất ngờ làm thay đổi trọn cuộc đời ông:
Ông bị tắt tiếng nói vì một chứng bệnh yết hầu. Mọi sự chạy chữa đều vô
hiệu quả, và không một vị bác sĩ nào có thể chữa cho ông khỏi bịnh.
Không thể tiếp tục hành nghề nhân viên bảo hiểm, ông bèn trở về nhà cha
mẹ ông. Ông ở đó gần một năm, không hoạt động gì cả và chứng bịnh của
ông dường như không thể chạy chữa. Sau cùng, ông quyết định theo học
nghề chụp ảnh, vì nghề này không bắt buộc phải dùng đến giọng nói. Trong
khi ông đang tập sự nghề chụp ảnh, một nhà thôi miên đạo diễn tên là
Hart, đi ngang qua Hopskinville và biểu diễn tài nghệ tại nhà hí viện
thành phố.Nhà thôi miên Hart khi nghe nói ông Cayce bị chứng bịnh tắt
tiếng, mới đề nghị chữa bịnh cho ông bằng khoa thôi miên. Ông Cayce liền
vui vẻ nhận lời. Trong giấc thôi miên, ông Cayce tuân theo mệnh lệnh
của ông Hart và nói chuyện như thường, nhưng trái lại, khi ông thức tỉnh
thì ông lại bị tắt tiếng như trước.Trong những giấc thôi miên kế đó,
nhà thôi miên bèn dẫn dụ cho ông nghe rằng: Sau khi thức tỉnh, ông sẽ có
thể nói chuyện được như bình thường. Phương pháp này gọi là "Aùm thị
thôi miên, " tuy rằng rất hiệu nghiệm và đã từng giúp đỡ được nhiều
người thắng được một vài thói quen như tật hút thuốc quá độ chẳng hạn,
lại không có kết quả đối với chứng bịnh của ông Cayce.
Ông
Hart, vì phải di chuyển qua tỉnh khác theo chương trình đã sắp đặt,
không thể tiếp tục những cuộc thí nghiệm của ông nữa, nhưng có một người
tên là Layne ở cùng một địa phương, đã theo dõi cuộc chữa bịnh cho ông
Cayce một cách thích thú. Ông Layne mới đề nghị với ông Cayce để cho ông
ta thử điều trị cuống họng của ông. Ông Cayce vì muốn được khỏi bịnh
bằng bất cứ phương pháp điều trị nào, liền chấp nhận.
Ông
Layne mới nảy ra một sáng kiến mới, là dẫn dụ cho ông Cayce trong giấc
thôi miên, hãy tự diễn tả căn bịnh của mình.Thất lạ thay, ông Cayce tuân
theo lời dẫn dụ đó và làm đúng y theo lời. Bằng một giọng nói bình
thường, trong khi ông chịu sự dẫn dụ thôi miên của ông Layne, ông Cayce
mới bắt đầu diễn tả trạng thái của những sợi dây thanh âm (cordes
vocales) trong cuống họng ông. Ông nói: "A! Chúng ta có thể nhìn thấy
cái thể xác này! Vào lúc bình thường, nó không thể nói được vì những thớ
thịt phần dưới cuống họng bị liệt bại hết một phần, so một sự căng
thẳng thần kinh gây nên. Chứng bịnh này nguyên nhân là do một trạng thái
tâm lý gây ra và ảnh hưởng đến phần thể chất. Muốn chữa hết bịnh, phải
dùng các dẫn dụ để làm vận chuyển sự lưu thông máu huyết ở bộ phận bị
đau, trong khi người bịnh còn nằm trong trạng thái vô ý thức của giấc
thôi miên."
Ông Layne liền dẫn
dụ cho ông Cayce nghe rằng sự lưu thông máu huyết của ông sẽ tăng gia
một cách dồi dào ở chỗ cuống họng bị đau và bịnh trạng của ông sẽ thuyên
giảm. Lần lần, phần trên của bộ ngực và cuống họng của ông Cayce thay
đổi màu sắc, và chuyển từ hồng nhạt sang màu đỏ thắm. Sau đó 20 phút,
vẫn trong giấc ngủ thôi miên, ông Cayce bèn ho lên mấy tiếng để lấy
giọng và nói: "Tốt lắm, căn bịnh đã dứt. Ông hãy dẫn dụ rằng sự lưu
thông máu huyết sẽ trở lại bình thường và thể xác này hãy thức tỉnh."
Ông Layne liền làm y theo lời. Ông Cayce bèn thức tỉnh và nói chuyện như
thường lần đầu tiên từ trên một năm nay. Trong những tháng sau đó,
thỉnh thoảng căn bịnh ông tái phát trở lại một đôi lần. Mỗi lần như thế,
ông Layne lại dẫn dụ bằng thôi miên cho máu huyết lưu thông nơi cuống
họng, và chứng bịnh lại dứt.
Câu chuyện của ông
Cayce có lẽ đã chấm dứt với bấy nhiêu đó, nếu ông Layne không nhìn thấy
những triển vọng sâu xa của trường hợp đặc biệt này, và tìm cách khai
thác trên địa hạt thực tế. Lịch sử của khoa thôi miên là điều quen thuộc
đối với ông và ông đã từng biết những trường hợp tương tự đặt dưới sự
điều trị của ông De Puysegur ở Pháp, ông này là vị kế nghiệp cho bác sĩ
Mesmer, người đã khám phá ra khoa nhân điện học. Ông Layne nghĩ rằng nếu
ông Cayce có thể nhìn thấy thể xác của những người khác và khám bịnh
cho họ. Ông Layne bèn thí nghiệm điều này với chính mình ông, vì trong
thời gian gần đây ông bị chứng đau bao tử. Cuộc thí nghiệm đã thành công
mỹ mãn. Trong giấc thôi miên, ông Cayce diễn tả trạng thái bên trong
xác thể của ông Layne và đề nghị một vài phép điều trị. Ông Layne lấy
làm vui mừng vô hạn: Sự khám nghiệm của ông Cayce hoàn toàn đúng theo
những triệu chứng mà chính ông đã nhận thấy và cũng đúng theo sự khám
nghiệm của nhiều vị bác sĩ khác.
Hơn
nữa, cách điều trị của ông Cayce đưa ra gồm có một phép ăn uống hạn
chế, kiêng cữ, những thuốc men và những phép tập thể dục chưa từng đem
áp dụng cho trường hợp của ông từ trước. Ông Layne bèn áp dụng theo cách
điều trị ấy và trong vòng ba tuần, ông nhận thấy rằng bịnh trạng của
ông đã thuyêng giảm rất nhiều. Những sự kiện trên đây là cho ông Cayce
lưỡng lự phân vân không ít. Nhưng ông Layne lấy làm vô cùng hứng khởi và
quyết định thử xem phép điều trị này có thể chữa khỏi bịnh cho những
người khác hay không?
Hồi mới
lên mười tuổi, ông Cayce bắt đầu đọc bộ Thánh Kinh (Bible), và đọc đi
đọc lại hàng năm từ đầu đến cuối bộ sách ấy. Ông có ý nghĩ muốn trở nên
một nhà chữa bịnh để cứu giúp các bệnh nhân đau khổ, cũng như các vị môn
đồ đấng Christ hồi xưa.Về sau, ông có tham vọng trở nên một nhà truyền
giáo như đã nói ở trên, nhưng hoàn cảnh của ông không cho phép.Và đến
bây giờ thình lình ông nhận thấy cơ hội làm thầy chữa bịnh cho thiên hạ
tự nhiên xuất hiện đến với ông. Nhưng ông còn băn khoăn lo ngại không
dám nắm lấy cơ hội ấy, vì ông sợ rằng nếu trong giấc ngủ thôi miên, ông
lỡ nói một điều gì có hại và nguy hiểm cho tánh mạng kẻ khác, thì sao?
Nhưng ông Layne liền bảo đảm rằng ông đừng sợ gì cả; chính ông Layne đã
có hiểu biết khá nhiều về Yhọc để có thể ngăn chận lại những phép điều
trị nào xét ra có hại cho bịnh nhân. Ông Cayce liền thăm dò lại bộ Thánh
Kinh để tìm lấy một đường lối hành động. Sau cùng, ông bằng lòng giúp
đỡ cho những người bịnh nào muốn điều trị theo phương pháp của ông,
nhưng ông nói trước một cách dứt khoát rằng đó chỉ là những cuộc thí
nghiệm, và ông không đòi hỏi tiền thù lao chi cả.
Kế
đó, ông Layne mới bắt đầu chép bằng tốc ký những lời mà ông Cayce thốt
ra trong giấc ngủ thôi miên và gọi đó là biên bản, hay phúc trình những
cuộc "Khán Bịnh Bằng Thần Nhãn." Điều lạ lùng nhất trong những cuộc khán
bịnh của ông Cayce, ngoài những giờ hành nghề nhiếp ảnh, ông đã dùng
những danh từ đúng đắn về khoa Sinh Lý Học và Cơ Thể Học, mặc dầu trong
lúc thức tỉnh, ông không hề biết một điều gì về nghành Y học và không hề
đọc các sách về Ykhoa. Điều càng lạ lùng hơn nữa đối với ông Cayce, là
những bịnh nhân do ông điều trị đều được thuyên giảm rất nhiều. Trường
hợp của ông Layne không đủ làm cho ông chịu thuyết phục vì ông cho rằng
có lẽ sự tưởng tượng đã làm cho ông Layne tưởng rằng mình khỏi bịnh.Về
phần ông Cayce, việc ông đã thu hồi lại được giọng nói không thể cho là
sự tưởng tượng, nhưng đó có thể chỉ là một sự ngẫu nhiên tình cờ.
Những
sự nghi ngờ nó vẫn luôn ám ảnh ông trong những năm đầu khi ông mới bắt
tay vào việc khán bịnh bằng Thần Nhãn, đã lần lần giải tán trước sự kiện
hiển nhiên là những bịnh nhân do ông điều trị đều được khỏi bịnh, thậm
chí đến cả những trường hợp được coi như là nan y và hết phương chạy
chữa.
Lần lần, quyền năng phi
thường của ông Cayce đã được đồn đãi khắp mọi nơi. Một ngày kia, ông
được tin điện thoại của ông cựu Thanh tra Giáo dục thành phố
Hopskinville mời ông đến chữa cho cô con gái của ông mới lên năm tuổi,
và đau ốm đã ba năm nay. Em ấy bị chứng cảm cúm vào năm hai tuổi và từ
khi đó đến nay, em bị mất trí khôn. Những vị bác sĩ chuyên môn mà cha mẹ
em đã mời đến khám bịnh cho em đều thúc thủ vô sách, không làm sao cứu
em khỏi bịnh. Gần đây, em lại bị chứng phong giựt càng ngày càng dữ dội
thêm, và một vị bác sĩ chuyên môn đã tuyên bố rằng đó là một chứng bịnh
thuộc về óc, không thể chữa nổi. Cha mẹ em đã tuyệt vọng, và đem em trở
về nhà để chờ ngày em trút linh hồn. Khi đó, một người bạn mới nói
chuyện về cha mẹ em về ông Cayce và quyền năng nhiệm mầu của ông. Khi
ông Cayce nghe nói về trường hợp của cô gái nhỏ này, ông bằng lòng di
chuyển đến nơi để khám bịnh cho em ấy.Vì tình hình tài chánh của ông
không được dồi dào lắm, nên ông phải nhận tiền lộ phí của gia đình bệnh
nhân cung cấp: đó là lần đầu tiên mà ông nhận một món tiền về công việc
chữa bịnh của ông để giúp đỡ kẻ khác. Ông bèn lên đường, tuy rằng với
một sự băn khoăn khó nghĩ trong lòng.
Khi
cô gái nhỏ được đem đến trước mặt ông, ông càng cảm thấy một cách thấm
thía sự mỉa mai của vai trò của ông: Vì ông, con của một gia đình nông
dân tầm thường và không biết một chữa về y học, lại tự hào có thể chạy
chữa cho một đứa trẻ mà những nhà chuyên môn giỏi nhất trong xứ về
nghành Ykhoa đã phải chịu bó tay không chữa nổi! Ông cảm thấy hơi run
rẩy khi ông nằm trên chiếc sofa trong phòng khách nhà ông Thanh tra, và
ngủ mê thiếp đi. Tuy nhiên, trong giấc ngủ thôi miên, ông không còn băn
khoăn nghi ngại về ông nữa. Ông Layne có mặt ở một bên để dẫn dụ cho
ông, và chép bằng tốc ký những lời ông Cayce thốt ra như thường lệ.
Với
một sự bình tĩnh và tự tin mà ông vẫn thường biểu lộ trong những cuộc
khàn bệnh trước đây, ông Cayce mới bắt đầu diễn tả bịnh trạng của đứa
trẻ. Ông cho biết rằng trước khi bị cảm cúm, em bé ấy đã bị té ngã từ
trong xe văng xuống đất, và vi trùng bịnh cúm đã đột nhập vào chỗ thương
tích do tai nạn gây ra; rằng điều này gây nên chứng phong giựt. Ông cho
biết thêm rằng một sự điều trị thích nghi bằng phép nắn xương sẽ có thể
làm giảm bớt áp lực và giúp cho em nhỏ được bình phục trở lại như
thường.
Bà mẹ em bé xác nhận việc em bị ngã xe,
nhưng vì không thấy có thương tích, nên bà không hề nghĩ rằng việc ngã
xe lại có ảnh hưởng đến bịnh trạng của em bây giờ. Ông Layne bèn áp dụng
cách điều trị cho em theo lời dặn của ông Cayce và trong vòng ba tuần,
em nhỏ đã hết chứng phong giựt. Tình trạng trí khôn của em đã khá nhiều:
Em nói được tên của con búp bê, món đồ chơi thích nhất của em mà em vẫn
chơi trước khi bị bịnh; sau đó em gọi tên của cha mẹ em và cha mẹ em
lần đầu tiên từ nhiều năm nay. Sau ba tháng, hai ông bà chủ nhà tuyên bố
rằng cô con gái nhỏ của ông bà đã hoàn toàn bình phục và đang cố gắng
vớt vát lại thời gian đã mất trong những năm đen tối vừa qua.
Những
sự việc xảy ra như trường hợp này đã đem đến cho ông Cayce một đức tin
rằng ông không lầm mà đem sử dụng khả năng lạ lùng của ông để giúp đỡ
thế gian. Tiếng tăm của ông càng ngày càng đồn xa. Báo giới đã khám phá
ra chỗ ông ở và đã phỏng vấn ông. Kể từ khi đó, hằng ngày ông đều nhận
được những cú điện thoại và những bức điện tín của những bệnh nhân tuyệt
vọng yêu cầu ông chữa bệnh cho họ. Chính nhờ đó mà ông nhận thấy rằng
ông có thể khám bệnh xuyên qua không gian, trong khi ông ở cách xa bệnh
nhân đến hằng mấy trăm dặm đường, miễn là trong giấc thôi miên, người ta
nói cho ông biết tên tuổi và địa chỉ rõ ràng của bệnh nhân.
Ông
Cayce thường bắt đầu các cuộc khán nghiệm bịnh nhân ở xa bằng vài lời
bình phẩm về thời tiết và hoàn cảnh địa phương chỗ bịnh nhân ở, với một
giọng nói thì thầm đại khái như:
"Ở đây, sáng nay gió thổi mạnh quá!"
"Đây là Winthertur ở Thụy Sĩ. À! Những bộ áo pyjama này đẹp quá!" "Ừ! Bà mẹ đang cầu nguyện ở phòng bên!" ...
Những
sự tả cảnh đó về sau được xác nhận là đúng, lại càng giúp một bằng
chứng xác thực về năng khiếu Thần Nhãn của ôn Cayce. Dầu rằng bịnh nhân ở
cách xa, hay ở gần một bên ông trong một gian phòng, thì ông cũng dùng
một phương pháp giống nhau không có gì thay đổi. Ông chỉ cần cởi giày,
lên nằm trên divan hay trên giường một cách hoàn toàn thoải mái và nghỉ
ngơi. Ông nhận thấy rằng ông cần phải nằm day đầu về hướng bắc và quay
về hướng nam. Ngoài ra một chỗ nằm và một cái gối để gối đầu, ông không
cần dùng một món gì khác.
Những
cuộc khán nghiệm có thể diễn ra ban ngày cũng như ban đêm, và bóng tối
hay sáng đều không có ảnh hưởng gì khác nhau. Vài phút sau khi nằm yên
chỗ, ông liền ngủ thiếp đi. Khi đó, ông Layne, hay là vợ ông Cayce, hay
bất cứ một người nào khác mà ông tin cậy và giao phó trách nhiệm này,
mới đưa ra cho ông những lời dẫn dụ thích nghi. Câu dẫn dụ thông thường
là: "Bây giờ, ông sẽ thấy trước mặt ông (tên họ người bệnh), ở tại (địa
chỉ: Tên đường thành phố, xứ) Ông sẽ khán nghiệm thân thể người ấy một
cách chăm chú và cẩn thận, và ông sẽ nói cho biết bịnh trạng cùng nguyên
nhân của chứng bịnh là như thế nào. Ông cũng sẽ nói cách điều trị ra
sao để chữa bịnh cho cái thể xác người ấy được thuyên giảm. Và ông sẽ
đáp lại những câu hỏi của tôi đưa ra."
Vài
phút sau, ông Cayce bắt đầu nói, và ông Layne hoặc cô thư ký Gladys
Davis chép bằng tốc ký những lời nói của ông Cayce. Sau đó, bản chép tốc
ký được đem đánh máy lại rõ ràng. Trong phần nhiều trường hợp, một bổn
sao được đưa cho người bịnh hoặc thân nhân của y, hoặc người đỡ đầu hay
vị bác sĩ của đương sự, còn một bổn sao bằng giấy màu vàng thì được giữ
trong hồ sơ của bệnh nhân.
Lời
đồn đãi truyền khẩu và những bài tường thuật trên mặt báo chí về năng
khiếu Thần Nhãn của ông Cayce không bao lâu đã hấp dẫn sự chú ý của
những tay con buôn có óc trục lợi. Một nhà buôn lớn về ngành bông vải đề
nghị trả cho ông Cayce mỗi ngày một trăm dollars liên tiếp trong hai
tuần để nhờ ông "Xem" giùm giá thị trường bông vải hằng ngày. Mặc dầu
lúc ấy ông đang cần dùng tiền, nhưng ông bèn từ chối. Có những người
khác muốn nhờ ông chỉ giùm những chỗ chôn giấu kho tàng, hoặc chỉ con
ngựa nào về nhứt để đánh trúng giải cá ngựa trong trường đua. Có nhiều
lần, ông Cayce đã chịu nghe theo lời thiên hạ thỉnh cầu và làm thử những
chuyện kể trên để rút kinh nghiệm và cũng để xem kết quả ra sao. Nhiều
lần ông đã thành công và nói đúng kết quả của những cuộc cá ngựa; nhưng
nhiều lần ông cũng đã nói sai! Và những lần như thế, sau khi thức tỉnh
ông cảm thấy mệt mỏi, bực dọc và bất mãn về mình! Có một lần, người ta
thuyết phục được ông hãy thử thời vận và dùng Thần Nhãn để khám phá các
mỏ dầu hỏa ở tiểu ban Texas, nhưng ông không thu được kết quả gì đáng kể
và đã hoàn toàn thất bại!
Sau cùng ông nhận
thấy rằng ông chỉ có thể sử dụng năng khiếu thần thông của mình một cách
hữu hiệu và chắc chắn vào mục đích chữa bịnh cho nhân loại, vài chỉ vì
mục đích duy nhất đó mà thôi, chớ không bao giờ nên dùng Thần Nhãn để
giúp cho ai, hay cho chính mình trong việc kiếm tiền và sinh lợi! Chí
đến những sự quảng cáo ồ ạt để cầu danh, ông đều dửng dưng không quan
tâm đến.
Năm 1922, ông Giám Đốc tờ báo Denver
Post nghe nói đến ông Cayce và mời ông đến Denver. Sau khi dự kiến một
buổi khám bịnh có kết quả hiển nhiên, ông ta liền đề nghị với ông Cayce
một việc sau đạy: Ông ta sẽ trả cho ông Cayce mỗi ngày một ngàn dollars,
và tự đảm nhiệm lấy công việc tổ chức những cuộc trình diễn lưu động
trong xứ, nếu ông Cayce bằng lòng đổi tên họ và khoác lấy một cái tên Ấn
Độ, ăn mặc và bịt khăn theo lối Đông Phương, và khán bịnh bằng giấc
thôi miên sau một tấm màn che khuất để tránh những cặp mắt tò mò. Nhưng
ông Cayce quyết liệt từ chối.
Ông David Kahn,
Giám Đốc công ty Vô Tuyến Truyền Hình ở Brunswich, và là bạn cũ của ông
Cayce, trong những cuộc nói chuyện riêng tư, đã quảng cáo về việc làm
của ông Cayce trong các giới bạn bè và các giới kinh doanh thương mãi;
nhưng khi ông đề nghị mở một chương trình quảng cáo đại quy mô về công
việc của ông Cayce trên đài vô tuyến truyền hình, thì ông Cayce liền từ
chối một cách quyết liệt, ai làm bất cứ một sự quảng cáo nào về sự khán
bịnh hay về những cuộc diễn thuyết công cộng của ông.
Trong
các cuộc đàm thoại với những người không được biết ông nhiều, ông không
bao giờ nói về năng khiếu đặc biệt của mình, nếu người ta không hỏi ông
về vấn đế đó. Có nhiều người ở cùng một tỉnh nhưng không hề biết gì về
ông, ngoài ra việc ông làm nghề nhiếp ảnh. Ông sống với một niềm tin
tưởng chắc chắn rằng ông chỉ là một khí cụ để giúp đỡ và đem lại sức
khỏe cho những kể ốm đau khổ sở, và ông không bao giờ nên làm cho thiên
hạ chú ý đến mình.
Trong những năm đâù, ông
Cayce vẫn tiếp tục hành nghề nhiếp ảnh, và luôn luôn từ chối không nhận
tiền thù lao về những cuộc khám bịnh của ông. Về sau, khi số người bịnh
đến nhờ ông chạy chữa càng ngày càng đông làm cho ông không thể nào tiếp
tục hành nghề nhiếp ảnh được nữa, ông mới có lý do nhận tiền thù lao vì
ông còn phải đùm bọc và nuôi dưỡng gia đình. Tuy thế, đối với những
người nghèo không đủ sức trả tiền, ông vẫn khám bịnh giùm không lấy
tiền. Không bao giờ ông Cayce đòi hỏi hoặc bắt buộc bịnh nhân phải trả
tiền thù lao.
Những bổn sao các thư từ của ông
hiện còn được cất giữ trong các tập hồ sơ ở Virginia Beach, nơi ông đến
trú ngụ từ năm 1927, là nhữg bằng chứng hùng biện cho lòng hy sinh, vô
kỷ của ông. Mặc dầu trong những bức văn thư ấy có rất nhiều sự thiếu sót
về văn phạm, cách chấm câu và cách hành văn, nhưng nó biểu lộ một cách
sâu xa lòng mong muốn giúp đỡ và làm giảm bớt những nỗi đau khổ của nhân
loại. Trong những năm đầu tiên đó, ông Cayce luôn luôn bị dày vò bởi sự
hoài nghi. Có đôi khi, trong những cuộc khán binh, ông Cayce vẫn lặng
thinh không nói gì trong giấc ngủ thôi miên. Có lẽ trong những lúc đó,
năng khiếu Thần Nhãn của ông bị ảnh hưởng bởi tình trạng sức khỏe hoặc
trạng thái bất an của tâm hồn. Mặc dầu lúc thường, ông là một người dịu
dàng và hiền lành, nhưng ông có những lúc nóng giận thình lình; và ông
thường có sự lo âu về tiền bạc.
Một
tâm trạng như thế lẽ tất nhiên làm tê liệt mất năng khiếu của ông.
Trong những trường hợp khán bịnh mà không có kết quả, người ta phải đình
lại một lúc khác để đợi cho tình trạng sức khỏe và tâm lý của ông được
phục hồi trở lại, khi đó cuộc khám bịnh sẽ đem lại kết quả mong muốn.
Nhưng
ông Cayce cũng bị xúc động một cách sâu xa nếu có bịnh nhân nào tỏ vẻ
bất mãn vì cuộc khám bịnh không nói đúng theo bịnh trạng của họ, hoặc sự
điều trị không có kết quả như mong muốn. Trong những trường hợp đó, ông
Cayce xin lỗi một cách khiêm tốn trong những bức thơ dài, và giải thích
rằng ông không hề tự hào là Thần Y có thể chữa khỏi bá bịnh; rằng có một
phần chi tiết mà ông không được biết rõ, điều này làm cho những cuộc
khám bịnh của ông trở nên kém hiệu lực và bất toàn; và đôi khi ông không
nhìn thấy rõ ràng mọi sự, cũng như một cái máy thu thanh vô tuyến, nghe
khi mờ khi tỏ, chứ không phải lúc nào cũng chạy một cách đều đặn, hoàn
toàn. Và trong thơ, ông kết luận: "Mục đích duy nhất của chúng tôi là
giúp đỡ ông." Và ông gửi kèm theo trong thơ một ngân phiếu hoàn nguyên
số tiền mà ông đã nhận được lại cho vị thân chủ.
Thỉnh
thoảng, sau nhiều tháng, chính những người thân chủ đó trở lại cho ông
hay rằng một cuộc khám bịnh riêng về sau đã xác nhận những gì ông đã nói
từ lúc đầu, mà họ đã nghi ngờ là không đúng như bịnh trạng của họ. Cũng
có đôi khi ông Cayce nhận thấy rằng những bịnh nhân đã than phiền về sự
chữa bịnh không lành, đã tỏ ra cẩu thả không chịu áp dụng đúng theo
cách điều trị của ông đưa ra, chẳng hạn như họ quên ăn uống kiêng cữ,
hoặc không chịu uống thuốc, hoặc xao lãng về phần kỷ luật tinh thần mà
ông đã buộc họ phải noi theo. Dầu sao ông cũng biết rằng những cuộc khám
bịnh của ông không phải là bá phát bá trúng. Nhưng với thời gian qua,
những cuộc khám bịnh của ông càng ngày càng trở nên rõ ràng và đúng đắn
hơn trước, vì kinh nghiệm đã giúp cho ông biết cách sử dụng năng khiếu
của ông một cách hữu hiệu hơn. Những sự thất bại hoặc sai biệt xảy ra
một đôi khi, đã được bù đắp bởi những sự chữa lành bịnh một cách mầu
nhiệm.
Một vị linh mục Thiên
Chúa giáo người Gia Nã Đại đã được chữa khỏi bịnh động kinh; một người
trò trường tỉnh ở Dayton (Ohio) đã được chữa khỏi bịnh đau khớp xương; ở
New York, một viên nha y đã được chữa khỏi trong hai tuần chứng bịnh
nhức đầu kinh niên đã nhiều năm; một thiếu niên ở Philadenlphia mắc
chứng bịnh đau mắt có cườm, là một chứng bịnh được coi như là nan y, đã
được bình phục khi một vị bác sĩ chữa cho y theo lời chỉ thị của ông
Cayce.
Chính những trường hợp
chữa khỏi bịnh kể trên đã xảy ra rất nhiều lân2, làm cho ông Cayce bình
nhật vốn là một người khiêm tốn, do dự, và cẩn thận rất mực, phải tin
tưởng nơi cái năng khiếu của ông, mặc dầu thỉnh thoảng vẫn có những sự
khó khăn và một vài sự sai biệt nhỏ nhặt không đáng kể; và ông có thể
tin rằng đó là một cái thiên tư đặc biệt của trời phú cho.
Năm
1942, do các báo chí đua nhau nói về thân thế và sự nghiệp của ông
Cayce, tên tuổi của ông đã vang dội khắp nơi ở Hoa Kỳ. Kết quả là hằng
triệu thơ từ của người trong xứ ở khắp bốn phương đều được gởi đến nhờ
ông chữa bịnh, trong số đó có nhiều trường hợp rất đau thương và vô cùng
khẩn cấp. Ông Cayce không bao giờ từ chối việc chạy chữa cho một bịnh
bệnh nhân nào và không bao giờ ruồng bỏ một ai, đành phải định ngày khám
bịnh cho từng người, và có người ông phải hẹn trước đến mười tám tháng
mới đến phiên khám bịnh cho y.
Thay
vì chỉ khám bịnh hai hay ba lần trong mỗi ngày, có khi ông đã khám bịnh
đến tám lần, sớm mai bốn lần và bốn lần vào buổi chiều. Làm việc trong
giấc ngủ, có vẻ dường như là một công việc thoải mái dễ dàng, nhưng sự
thật, ông Cayce đã phung phí rất nhiều sinh lựcvà sự căng thẳng gây nên
bởi sự làm việc quá sức đó đã ảnh hưởng đến sức khỏe của ông; ông từ
trần vào ngày ba tháng giêng năm 1945, hưởng thọ 67 tuổi.
Cuộc
đời của ông Edgar Cayce đã chấm dứt, nhưng tiếng tăm của ông không bao
giờ mất. Nếu một người trở nên bất tử và lưu danh thiên cổ do những công
trình phụng sự nhân loại thì người ta có thể nói rằng ông Cayce đã trở
nên bất tử với thời gian vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét