Chương 8
Quả Báo Đối Với Sức Khỏe
Có
nhiều người tin tưởng một cách sai lầm về Luật Nhân Quả. Họ nghĩ rằng
theo luật ấy, mọi sự đều có tiền định, và điều này làm cho họ có một
thái độ thụ động, lười biếng, mất cả chí tiến thủ, và việc gì cũng đổ
thừa cho số mạng. Đó là trường hợp của người Ấn Độ, mà sự tin tưởng của
Luật Nhân Quả vốn ăn sân dân tộc của họ đã từng nhiều ngàn năm, làm cho
phần đông có cái thái độ kể trên.<!--more->
Trình
độ sinh hoạt ở Ấn Độ nói chung vẫn ở vào một mực rất thấp thỏi và bi
đát. Tình trạng này phần lớn là do óc thụ động, thiếu tranh đấu của
người Ấn trong sự chấp nhận nghiệp quả và số mạng của họ.
Nếu
chúng ta chấp nhận quan niệm về Nhân Quả, thì thái độ của chúng ta đối
với luật Quả Báo, cũng như đối với mọi định luật thiên nhiên, phải là an
phận và tin tưởng. Nhưng chúng ta không khỏi tự hỏi rằng chúng ta nên
chấp nhận sự kiềm tỏa của Luật Quả Báo và bằng lòng an phận đến một giới
hạn nào, và đến một mực độ nào? Vấn đề này được nêu ra trong những
trường hợp quả báo về xác thân gây nên những bệnh tật đau khổ cho xác
thể.
Về vấn đề này, những cuộc
soi kiếp của ông Cayce đều rất lý thú vì nó đem đến sự giải đáp rõ ràng
và chắc chắn cho những sự tranh luận về thuyết Luân Hồi.
Những câu hỏi sau đây đã được nêu ra:
- Đối
với những ng&ười đau khổ vì một chứng bịnh quả báo, phải dùng phép
điều trị như thế nào? Có hy vọng chữa khỏi những chứng bịnh "Nhân quả"
đó không? Mỗi cuộc soi kiếp trong tập hồ sơ Cayce đều khuyên ra không
nên có một thái độ quá thụ động trong sự trả quả. Luôn luôn trong những
cuộc soi kiếp, ông Cayce đều lặp đi lặp lại câu này để nói với bịnh
nhân:
"Đó là nghiệp quả của anh (hay chị). Và bây giờ, đây là điều mà anh (hay chị) có thể làm để sửa đổi lại."
Trong
những tập hồ sơ đó, có điều đáng chú ý là trong tất cả mọi trường hợp
về bịnh "Nhân quả," luôn luôn đều có những lời khuyên về cách điều trị.
Trong nhiều trường hợp về bịnh quả báo, cuộc soi kiếp cho biết có hi
vọng chữa khỏi. Trong những trường hợp mà nghiệp quả nặng nề hơn, cuộc
soi kiếp nói rõ rằng không nên hy vọng được hoàn toàn chữa khỏi, nhưng
bịnh có thể được thuyên giảm nhờ sự cố gắng; và kế đó là sự diễn tả
phương pháp điều trị.
Đây là một
trường hợp lý thú của một người thợ điện, 34 tuổi, bị một chứng bịnh
đau mắt có cườm rất nặng, không thể chữa khỏi. Trong ba năm, y không làm
việc gì được; y đã quá mù mắt để có thể đọc hay viết; và khi y thử đi
vài bước thì y thường bị vấp ngã. Yđã vào nằm nhiều bịnh viện, trong khi
đó vợ y làm công trong một cửa hàng lớn để nuôi gia đình và một đứa con
năm tuổi. Trong một cuộc khán nghiệm, y được cho biết là một chứng bịnh
quả báo, nhưng y không nên tuyệt vọng. Cuộc soi kiếp nói:
- À!
Chúng ta có cái tthể xác ở đây. (Các cuộc soi kiếp đều bắt đầu bằng một
câu này, tuy giản dị mà lạ lùng, trước khi diễn tả căn bịnh của đương
sự.) Theo chỗ chúng thấy thì bịnh trạng rất nặng, nhưng anh chớ tuyệt
vọng vì sự cứu chữa đã sắp đến.
Tiếp
theo sau đó là sự diễn tả căn bịnh bằng những danh từ Yhọc. Kế đó, ông
Cayce nói về những mãnh lực hàn gắn tiềm tàng trong thể xác của bịnh
nhân; ông nói qua vài điều chỉ rằng nguyên do chứng bịnh này là do quả
báo gây ra. Tiếp theo đó là lời khuyên bịnh nhân hãy thay đổi tâm tính,
và dẹp bỏ mọi điều oán ghét, thù hận và mọi tư tưởng ác. Cuộc soi kiếp
kết thúc bằng một phương pháp điều trị tỉ mỉ từng chi tiết.
Độ
một năm sau, chính người bịnh nhân ấy viết thơ yêu cầu ông Cayce dành
cho một soi kiếp thứ nhì; y cho biết rằng y đã áp dụng cách điều trị một
cách đúng đắn và đã thấy khá. Sự thuyên giảm đó kéo dài được bốn tháng,
nhưng sau đó bịnh lại tái phát và sức khỏe bị giảm sút.
Dường
như y chỉ áp dụng phép điều trị về phương diện vật chất, mà không chú ý
bao nhiêu đến phương diện tinh thần, vì cuộc soi kiếp lần thứ hai đã
cảnh cáo y một cách không úp mở như sau:
"À!
Chúng ta có cái thể xác ở đây. Thể xác này, chúng ta đã thấy trước đây
không lâu. Chúng ta nhận thấy rằng thể xác này đã có nhiều tiến bộ về
vật chất, nhưng nó còn rất nhiều điều phải sửa chữa.
"Như
đã nói ở trên, đây là một chứng bịnh quả báo. Linh hồn này phải thay
đổi thái độ đối với cuộc đời, đối với mọi hoàn cảnh và đối với người
đồng loại. Bịnh được thuyên giảm một phần nào, do sự áp dụng những
phương pháp điều trị về thể chất. Nhưng nếu linh hồn này lấy làm tự mãn,
và không chịu thay đổi thái độ về mặt tâm linh; nếu y vẫn còn nuôi lòng
thù hận, ích kỷ, độc ác bất công và ganh ghét; nều y vẫn còn nuôi trong
lòng nhữn gì trái ngược lại với đức kiên nhẫn, khoan dung, bác ái,
thiện cảm, nhân từ, thì bịnh trạng của y không thể nào có thể chữa khỏi.
"Linh hồn này còn muốn khỏi bịnh vì mục đích gì?"
"Phải chăng là để thỏa mãn những dục vọng của thể xác?"
"Hay là để làm tăng trưởng thêm lòng ích kỷ của mình? Nếu như thế, thì tốt hơn là y hãy cứ ở nguyên tình trạng cũ của y bây giờ.
"Nếu
linh hồn này có sự thay đổi bên trong về thái độ và về đường tâm tính,
nếu y biểu lộ sự thay đổi đó trong lời nói và hành động, và nếu y áp
dụng cách điều trị đúng như phương pháp đã nêu ra, thì bịnh y sẽ có thể
thuyên giảm.
"Nhưng trước hết
cần phải có một sự thay đổi tánh tình, tâm trạng và mục đích. Tất cả
những cách điều trị máy móc mà anh đã áp dụng chỉ có thể đem đến một sự
khỏi bịnh hoàn toàn khi nào linh hồn anh và mục đích của anh được tiếp
nhận ân đức Thánh Linh. Ân huệ đó, anh muốn nhận lãnh hay từ chối, là
tùy ý anh. Chúng tôi không còn gì để xét thêm, trừ phi anh biết tự sửa
đổi. Chúng tôi đã chấm dứt cuộc khám bịnh ở nơi đây."
Người
ta nhận thấy trong những đoạn kể trên đây, rằng hy vọng được khỏi bịnh
tùy thuộc nơi sự thay đổi trong tâm hồn và thái độ của bịnh nhân đối với
cuộc đời. Anh muốn khỏi bịnh với mục đích gì? Đó là một câu hỏi rõ ràng
với một giọng dò xét. Phải chăng là để thỏa mãn những dục vọng của xác
thể? Hay là để làm tăng trưởng lòng ích kỷ? Nếu như thế tốt hơn anh hãy ở
vào tình trạng cũ!
Trải qua
trên 15.000 cuộc soi kiếp, ông Cayce không một lần nào từ chối giúp đỡ ý
kiến để cho một bịnh nhân tự điều trị lấy, dầu y đã phạm tội lỗi xấu xa
nặng nề như thế nào. Nhưng cũng như trong trường hợp kể trên, ông
thường nhấn mạnh rằng bịnh tật đau khổ có một mục đích giáo dục để bắt
buộc chúng ta quay về đường chính, và sự tội lỗi, tà vạy đã gây nên quả
báo bịnh tật cần phải được sửa đổi. Người bịnh cần phải cố gắng bằng đủ
cách để cải thiện tình trạng của mình; nhưng đồng thời y phải sửa đổi sự
yếu kém bên trong tâm hồn. Những sức mạnh hàn gắn thiên nhiên và những
cách điều trị của khoa học hiện đại có thể đem đến một sự thuyên giảm
tạm thời, nhưng không thể chữa khỏi bịnh, nói về khía cạnh tinh thần của
Luật Quả Báo. Nói tóm lại, sự khỏi bịnh phải là do ở khía cạnh tâm
linh, nó phải đến từ bên trong, chứ nếu không, nó sẽ không được lâu bền.
Trường
hợp sau đây của một người mù, rút trong số hằng trăm trường hợp mù lòa
trong các tập hồ sơ Cayce, có thể tiêu biểu cho quan điểm kể trên. Đây
là biên bản cuộc khán nghiệm: "Đây cũng là một bịnh quả báo. Sự áp dụng
các lý tưởng đạo đức tâm linh trong cách xử thế hằng ngày đã đem đến một
sự thay đổi lớn trong cuộc đời của bệnh nhân. Tuy lúc đầu bịnh nhân vẫn
không thấy bớt, nhưng chúng tôi thấy rằng cặp mắt bịnh nhân đã lần lần
thuyên giảm khi y bắt đầu sửa đổi tâm tánh. Chúng tôi nhận thấy rằng sự
cố gắng đầu tiên phải là thuộc về địa hạt tinh thần và bịnh nhân phải cố
gắng biểu lộ lòng nhân từ trong những cử chỉ hằng ngày. Hãy tập lấy sự
thiện cảm, tình thân hữu, đức kiên nhẫn, dịu dàng, khoan dung, nhân
hậu... "
Trong hai trường hợp kể
trên, người ta thấy rằng cuộc soi kiếp nhấn mạnh trước hết ở sự thay
đổi tâm tính và cải tạo tinh thần, và đó là điều kiện cốt yếu để sửa đổi
nghiệp quả về xác thân. Nếu chúng ta nhớ rằng mục đích của sự quả báo
là giáo dục tâm linh, chúng ta sẽ hiểu rằng phương pháp điều trị kể trên
là lẽ tự nhiên vậy. Điều tội lỗi mà luật quả báo sửa đổi, không phải là
thứ "Tội lỗi" hiểu theo ý nghĩa dị đoan cổ xưa là làm trái ý hoặc xúc
phạm Quỷ Thần, cũng không phải theo ý nghĩa của các nhà Thần học, hay
của nền luân lý khiết bạch hồi thời Nữ hoàng Victoria. Đó là tội lỗi
theo ý nghĩa tâm lý, nó bao gồm tất cả những gì trái với định luật thiên
nhiên.
Tội lỗi hiểu theo ý
nghĩa đó vốn căn cứ trên lòng ích kỷ, hay khuynh hướng chia rẽ người với
ta, và tăng cường bản ngã đó có thể khoác lấy nhiều hình thức. Nó có
thể là sự tàn bạo đối với kẻ khác; hoặc sự lạm dụng cơ thể của chính
mình do bởi sự vô tiết độ hay sinh hoạt cẩu thả; hoặc nó có thể là do sự
kiêu căng, tự tôn tự đại. Những sự lỗi lầm đó sở dĩ có là do bởi một
điều lầm lạc chính đại, căn bản về nguồn gốc con người.
Vì
con người vốn là tinh thần chứ không phải là xác thể. Tội lỗi của con
người là do bởi y quên đi cái chân lý căn bản đó và tưởng rằng mình là
cái thể xác. Yphải cố gắng loại trừ điều ảo vọng đó; và phương tiện chắc
chắn nhứt để đánh đổ điều hư vọng ấy không phải là phủ nhận thể xác một
cách tiêu cực, mà là một phương pháp tích cực tự hỗn hợp với tinh thần.
Về
điểm này, những cuộc soi kiếp của ông Cayce và những giáo lý thần bí
khác gọi sự hỗn hợp tinh thần đó là Ân Phước, hay Ơn Trên. Người ta thấy
trong những trường hợp kể trên cũng như trong những trường hợp khác về
quả báo xác thân trong tập hồ sơ Cayce, rằng lời khuyên răn tối hậu để
được khỏi bịnh là bịnh nhân hãy cố gắng làm thế nào để được thấm nhuần
Ơn Trên, hay lòng Nhân Từ của đấng Christ. Những cuộc soi kiếp của ông
Cayce đã dùng những lời lẽ và danh từ Gia Tô Giáo, bởi vì ông Cayce là
người theo đạo Gia Tộ Trong lúc bình thường, ý thức của ông đã thấm
nhuần những từ ngữ và quan điểm Gia Tô, vì vậy những lời nói do nơi tiềm
thức của ông thốt ra trong giấc thôi miên đều phải đi xuyên qua cái bức
màn đó. Người ta có thể hiểu rằng nếu ông Cayce sinh trưởng ở một xứ
Phật giáo, thì có lẽ ông đã dùng những lời lẽ danh từ trong khuôn khổ
tôn giáo và văn hóa địa phương và có lẽ ông đã dùng những danh từ nhà
Phật. Nhưng cách biểu lộ tư tưởng của ông, dầu là dưới hình thức nào,
cũng không có ảnh hưởng gì đến công việc cứu khổ mà ông vẫn theo đuổi.
Dưới đây là một thí dụ về sự khuyên răn của ông cho một người bị chứng
bịnh lao tủy xương sống: "Anh hãy nhớ rằng nguồn gốc bịnh trạng của anh
là tự anh gây ra: Nó là một chứng bịnh quả báo. Phương diện tốt nhứt là
anh hãy cầu nguyện Ơn Trên và hoàn toàn tin tưởng nơi đấng Thiêng Liêng,
vì Ngài là Công Bằng, Chân Lý và Ánh Sáng."
Ơn
Trên ở đây không phải là một độc quyền của đạo Gia Tô hay của những
người tin ở đấng Christ: Ơn Trên có thể được ban xuống cho tất cả người
nào, dầu y là người Phật giáo, Ấn giáo, Hồi giáo hay Gia tô cũng vậy.
Được thấm nhuần Ơn Trên, tức là do sự sám hối, ăn năn tội lỗi và quyết
chí sửa mình mà được hưởng ân huệ tốt lành nó làm tiêu tan nghiệp chướng
do luật Quả Báo đưa đến. Sự suy gẫm, cầu nguyện, đọc Thánh Kinh, lập
hạnh, và làm việc phụng sự giúp đời, là những phương pháp thường được
nêu ra trong các cuộc soi kiếp của ông Cayce để sửa đổi tâm tính và tiến
bộ tâm linh. Nhưng muốn được hiệu nghiệm, những phương pháp đó phải
được thi hành một cách thành thật, chứ không phải là một cách máy móc.
Nếu không có một tình thương nhân loại và chúng sinh phát ra tự trong
đáy lòng, nếu không có đức nhân ái từ bi, thì những phương pháp thực
hành kể trên chỉ là trống rỗng và không có giá trị gì. Chỉ có những kỷ
luật đúng đắn, một sức dẫn dụ mạnh mẽ quyết tâm cải tà quy chánh, mới có
thể đưa linh hồn vào đúng con đường của nó. Nhưng còn đối với hằng
triệu linh hồn hãy còn vào thời kỳ ấu trĩ về phương diện tâm linh, những
phương pháp trên không thể nhất thời đưa họ tiến ngay đến mục đích.
Không phải tất cả mỗi người đều đã tiến hóa đến một trình độ tâm linh
đầy đủ để có thể đạt được trong một kiếp cái tình bác ái rộng rãi bao la
nó bao trùm tất cả mọi loài, tức là trạng thái thâm thức đó mới có đủ
mãnh lực làm tiêu tan mọi điều tật ách, nghiệp chướng do quả báo đưa
đến.
Trong trường hợp người
thanh niên bị chứng bịnh lao ở tủy xương sống, cuộc soi kiếp dường như
biết rõ y không đủ sức thực hiện những điều kể trên. Bởi đó, với sự
thẳng thắn của một vị y sĩ biết rõ tiềm lực và khả năng của bịnh nhân và
không muốn làm cho y hy vọng những điều quá sức mình, ông Cayce đã cho y
biết rõ: "Bịnh anh chỉ có thể giảm bớt phần nào thôi, chứ không thể dứt
tuyệt." Tuy nhiên, cuộc soi kiếp không phải đã kết thúc.
Trong
trường hợp này và những trường hợp khác nữa, cuộc soi kiếp tiếp tục đưa
ra cho bịnh nhân những phương pháp điều trị về phần thể chất, để cho
bịnh nhân có thể làm những cố gắng cụ thể để tự chữa bịnh lấy mình. Sự
kiên nhẫn, bền chí, can đảm và những đức tính khiêm tốn, nhân từ, khoan
hậu, mà bịnh nhân cố gắng phát triển và thâu thập được trong thời kỳ đó,
sẽ đóng góp phần nào trên phương diện tinh thần, ít nhứt là một cách
gián tiếp, để sửa chữa nghiệp quả. Như vậy, thay vì có một thái độ tiêu
cực, thụ động đối với vấn đề trả quả, những cuộc soi kiếp của ông Cayce
luôn luôn khuyến khích bịnh nhân hãy có một thái độ tích cực tranh đấu
để vượt qua nỗi chướng ngại đau khổ của mình. Dưới đây là một khía cạnh
quan trọng khác của vấn đề chữa bịnh.
Trong những
cuộc soi kiếp, ông Cayce luôn luôn đưa ra những điều khuyên răn các bịnh
nhân tùy theo trình độ tiến hóa riêng của từng người. Ông đưa ra những
phương pháp điều trị thiên hẳn về tinh thần cho những người không thể
hiểu được hoặc chống chỏi lại những phương pháp đó. Bác sĩ Alexis
Carrel, tác giả hai quyển sách nhan đề: "Con Người, Một Vật Huyền Bí" và
"Cuộc Hành Trình Đến Thành Lourdes," cho biết rằng ở Lourdes, nhiều
ngườit sâu xa, đã được chữa khỏi ngay tại chỗ về bịnh ung thư và những
chứng bịnh nan y khác. Nếu như sự khỏi bịnh ấy quả có thật, thì chắc
chắn là việc ấy không thể xảy đến cho những người không có một đức tin
và một thái độ tinh thần giống như của những người được khỏi bịnh kể
trên.
Sự nghiên cứu nhiều cuộc
soi kiếp và khán bịnh của ông Cayce chỉ rõ ràng nguồn tài liệu luôn luôn
biết rõ giới hạn đức tin của bịnh nhân. Trong nhiều trường hợp, những
cuộc soi kiếp biết rằng vài bịnh nhân có thrể được chữa khỏi bằng phương
pháp dẫn dụ tinh thần. Trong những trường hợp khác cũng cùng một chứng
bịnh nhưng bịnh nhân lại không thể chữa khỏi bằng phương pháp đó, hoặc
vì do sự thiếu hiểu biết, hoặc do sự hoài nghi, hoặc vì họ quá thiên về
quan niệm vật chất. Đối với những người này, tốt hơn là hãy khuyên họ
dùng phương pháp điều trị thể xác. Người ta nhớ một câu chuyện cổ điển
Ấn độ nói về một người đệ tử của một người đạo sĩ nọ. Người đệ tử đã
trải qua một giai đoạn huấn luyện công phu để có thể chế ngự được vật
chất bằng sức mạnh tinh thần. Ylà một người đệ tử ưu tú và có nhiều khả
năng. Ybèn ẩn mình trong rừng sâu, và sau mười năm tập luyện y mới trở
lại gặp Tôn Sự Tôn Sư hỏi: "Con đã làm gì trong suốt thời gian đó?"
Người đệ tử đáp lại với một giọng hơi tự đắc: "Con đã luyện tập chế ngự
tư tưởng để có thể đi trên mặt nước và bây giờ con có thể vượt qua sông
như đi trên đất bằng." Vị Tôn Sư nói với một giọng buồn rầu:
"Con
ơi! Con đã lãng phí thời giờ vô ích. Con há lại chẳng biết rằng con có
thể vượt qua sông mà chỉ trả có một xu cho người lái đò?"
Câu
chuyện này do một dân tộc đã từng phát triển sức mạnh tâm linh trải qua
nhiều thế kỷ để lại, có một ý nghĩa sâu xa để cho chúng ta suy gẫm. Lẽ
dĩ nhiên, sự cố gắng để tự chữa bịnh cho mình bằng sức mạnh tinh thần là
một cố gắng đáng khen và nó giúp cho ta tự đào luyện tinh thần và ý
chí. Khoa học công giáo và những phong trào tôn giáo cùng một loại đã
từng phổ biến trước công chúng sự hiểu biết về những quyền năng của tư
tưởng, nó là nguồn gốc của nhiều chứng bịnh của người đời, và đồng thời
cũng có thể được dùng để chữa bịnh luôn. Tuy nhiên, người ta cần biết
rằng có những chứng bịnh nguyên nhân không phải do tư tưởng gây ra;
nhiều chứng bịnh, dầu là nguyên nhân nào, có thể điều trị bằng những
phương tiện vật chất một cách hữu hiệu hơn là điều trị bằng tinh thần.
Những
quan niệm về y học của ông Cayce còn có một khía cạnh khác: Những cuộc
soi kiếp không cho là một phương pháp điều trị nào lại "Tinh thần" hơn
một phương pháp nào. Tất cả những phương pháp điều trị đều có một nguồn
gốc thiêng liêng như nhau.
Một
người phụ nữ kia bị chứng đau lưng rất dữ dội. Bà muốn biết xem nên theo
cách điều trị thể xác hay tinh thần. Cuộc khán bịnh của ông Cayce giải
đáp câu hỏi đó như sau: "Bịnh trạng của bà phần lớn có thể chữa khỏi
bằng tinh thần. Nhưng bà hãy để tự nhiên. Nếu bà thấy đau nhiều, bà hãy
theo phép điều trị bằng thuốc men để đáp ứng sự nhu cầu của xác thể.
Thật ra hai phương pháp điều trị đều không khác gì nhau, vì là đều do
một nguồn gốc mà ra. Hai phương pháp ấy không phải tương phản nhau như
vài người tưởng lầm."
Một ký giả
ở Pittsburg bị bịnh tê thấp đã mười năm, được khuyên nên điều trị bằng
cách tắm nước nóng và dùng tử loại tuyến để làm tăng sự lưu thông máu
huyết và bài tiết chất độc trong máu. Cuộc soi kiếp nói: "Mọi sự chữa
bịnh đều do một Quyền Năng Thiên Liêng. Ai chữa khỏi bịnh cho anh? Đó là
cái Nguồn Sống sinh ra muôn loài vạn vật. Bất cứ phương tiện nào người
ta dùng để chữa bịnh, dầu cho đó là thuốc men, máy móc dụng cụ, tắm nước
nóng, hay là phương tiện nào khác, người ta cũng phải trở về cái Nguồn
Sống Duy Nhứt, tức là Thượng Đế vậy."
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét