Chương 14
Những Thiếu Phụ Cô Đơn
Khi
người ta xét vấn đề hôn nhân theo quan điểm Luân Hồi với những nhân
quả, nghiệp duyên từ những kiếp quá khứ xa xôi, người ta không khỏi tự
hỏi rằng tại sao có những người lại sống cô đơn mà không lập gia đình?
Có nhiều phụ nữ, mặc dầu họ có một dung nhan khá đẹp và những tính nết
bình thường, nhưng cơ hội kết hôn không bao giờ đến với họ. Những cuộc
soi kiếp của ông Cayce đã giải thích vấn đề này như thế nào?
Có
một câu tục ngữ Pháp nói về vấn đề hôn nhân như sau: "Hôn nhân cũng ví
như một thành trì bị bao vây: Những người ở ngoài thì muốn sấn vào, còn
những người ở trong thì muốn chạy ra!" Câu này tuy có vẻ trắng trợn,
nhưng lại rất đúng. Hôn nhân đã làm cho nhiều người đau khổ, đến nỗi
người ta phải ngạc nhiên mà thấy rằng vẫn còn có rất nhiều những kẻ muốn
lọt vào lòng, không màng nghĩ đến những điều hăm dọa của nó đối với sự
yên tĩnh của tâm hồn, và chỉ nhìn thấy những điều vui sướng mà nó hứa
hẹn! Mặc dầu người ta đã biết rằng hôn nhân có những sự khó khăn đau khổ
như thế, nhưng những người độc thân nói chung thường cảm thấy rằng họ
thiếu mất một cái gì quý báu, và cảm thấy đời sống khô khan, vô vị: Họ
đã bỏ lỡ một cuộc đời!
Tự nhiên
là trong tình trạng đó, yếu tố tình dục đóng một vai trò quan trọng.
Sống độc thân, ít nhất ở những xứ gọi là "Văn minh" có nghĩa là hoàn
toàn tiết dục, hay tiết dục một cách tương đối với người đàn ông. Ở xã
hội Tây Phương ngày nay, sống độc thân, nhất là đối với người đàn bà, là
một sự "Lỗi thời" và là một điều "Bất hạnh". Những trường hợp kể ra
dưới đây đều là những trường hợp của phụ nữ, vì trong các tập hồ sơ
Cayce, phụ nữ tỏ ra băn khoăn thắc mắc về vấn đề này nhiều hơn đàn ông,
và những trường hợp đau khổ của họ cũng rõ rệt hơn.
Cô
đơn! Có một cái gì tẻ lạnh ở trong danh từ này, một cái gì buồn thảm
không thể nói ra cho xiết. Cũng như câu "Hội ngộ lần cuối cùng" có lẽ là
câu nói buồn nhất trong ngôn ngữ của những kẻ yêu đương, thì câu "Tôi
sống độc thân" có lẽ là câu nói buồn nhất mà một người thốt ra về cái
hoàn cảnh của mình. Nếu không có một sự soi sáng tâm linh để giải pháp
cho vấn đề này, thì sự độc thân có lẽ là một trong những vấn đề khó
khăn, tẻ lạnh nhất của đời người.
Dưới
đây là trường hợp của một người đàn bà luôn luôn cảm thấy khổ sở vì
phải sống một cuộc đời quạnh hiu, đơn chiếc. Cô là một người đàn bà Na
Uy rất đẹp và duyên dáng, và làm thơ ký ở New York. Cô đã trải qua hai
đời chồng, người chồng trước qua đời sau khi thành hôn qua một thời gian
rất ngắn; sau đó tái giá một người khác lớn tuổi hơn nhiều, những cuộc
hôn nhân này lại không có hạnh phúc, và cuộc ly dị đã đến rất mau. Cô
không có con, tất cả những người thân trong gia đình đã qua đời, và chỉ
còn trơ trọi có một mình. Nghề làm thư ký giúp cho cô có cơ tiếp xúc với
nhiều người, nhưng đó chỉ là những sự xã giao bề ngoài. Cô ước mong tái
giá lần nữa, nhưng dịp may không thấy đến và nay chỉ sống cô đơn. Khi
yêu cầu ông Cayce soi kiếp, những câu hỏi của cô biểu lộ một tâm sự buồn
thảm và đau thương: "Tại sao tôi lại bị cô đơn tẻ lạnh như vầy? Có một
lý do đặc biệt nào khiến cho tôi không thể tìm thấy một tấm lòng bầu bạn
tri kỷ trong hôn nhân? Tại sao tôi lại bị thất bại như vầy?" Cuộc soi
kiếp cho biết rằng tình trạng cô độc này có một nguyên nhân sâu xạ Hai
kiếp về trước ở Na Uy, cô đã làm một việc lầm lạc tai hại nó gây nên cái
tình trạng bi đát hiện nay: Cô đã tự tử trong một cơn thất chí! Trong
kiếp trước đó, cô là mẹ của hai đứa trẻ nhỏ và chồng cô vì một lý do nào
đó, bị trục xuất ra khỏi làng. Sau khi sinh con thứ hai, cô quá thất
vọng và nhảy xuống vực sâu tự tử. Cuộc soi kiếp nói: "Bởi đó trong kiếp
này, cô thường có những lúc hiu quạnh, sầu thảm, hầu như không thể chịu
nổi!"
Quả báo trong trường hợp
này thật là rõ rệt. Trong một lúc thất vọng, người đàn bà này đã tự tử,
làm cho chồng con bị thiếu mất đi cái tình trìu mến săn sóc mà họ cần
nơi người vợ và người mẹ. Cô đã không đếm xỉa đến bổn phận gia đình,
tinh thần danh dự và trách nhiệm đối với chồng con, và bởi đó cô tạo nên
cái hoàn cảnh bơ vơ lạc loài trong kiếp này. Chỉ khi nào người ta bị
thiếu thốn tình cảm, thì người ta mới biết cái giá trị của nó. Đó là một
trường hợp đáng cho ta suy gẫm. Nó không những xác nhận sự minh triết
của Hội Thánh Gia Tô về việc cấm đoán tự tử như một tội nặng, mà còn
biểu dương sự thật này là chúng ta phải trả lời về mọi hành vi của mình,
mọi cử chỉ lãnh đạm, thản nhiên, bơ thờ, khinh bạc, mọi sự lạm dụng và
hành vi trái đạo của mình trong đời sống hằng ngày.
Trường
hợp cô đơn dưới đây cũng gần giống như trường hợp trên, tuy rằng với
những chi tiết khác hẳn. Đó là một người đàn bà Anh, dạy học ở một
trường mẫu giáo và rất mong muốn lập gia đình. Cha mẹ đã qua đời từ khi
cô còn nhỏ; cô được các bà dì nuôi nấng, nhưng trong một bầu không khí
lãnh đạm khô khan và nghiêm khắc, mà kết quả là làm cho cô không thể hài
hòa với những người cùng đồng một lứa tuổi. Suốt đời cô cảm thấy cô độc
đơn chiếc, cách biệt với mọi người, và những khuynh hướng của một tâm
hồn khép chặt đã biểu lộ nơi cô. Cô đã trải qua một cuộc tình duyên,
nhưng đó chỉ là một sự hấp dẫn về thể chất, và mối tình này đã chấm dứt
khi sự khác biệt nhau về tâm tính với người yêu càng ngày càng biểu lộ
rõ rệt.
Từ đó trở đi, cô cảm
thấy cuộc đời dường như trống rỗng và vô vị. Cô làm việc sốt sắng và
thành công về phương diện nghề nghiệp; thông minh lanh lợi và biết giúp
đỡ người khác. Tuy nhiên, thỉnh thoảng có những lúc cô đắm chìm trong
một cơn thất vọng sầu thảm, kéo dài nhiều tuần và khó nguôi. Trong những
cơn khủng hoảng đó, cô thường nghĩ đến sự tự vẫn. Người ta không thể
tưởng tượng rằng một người đàn bà vừa có nhan sắc vừa khôn ngoan lại có
thể bị những cơn thất chí buồn bực sâu xa như thế.
Cuộc
soi kiếp cho biết rằng bốn kiếp trước, cô sống ở Ba Tư và đã tự tử kh
những bộ lạc ẢRập tấn công xứ này. Trong kiếp đó, cô là con gái của một
người tù trưởng trong xứ, và bị bắt làm tù binh của vị vương quốc Ả Rập,
cùng một lượt với những người khác. Sau đó, cô bị đem gả làm hầu thiếp
cho một viên phó tướng ẢRập, sinh hạ một đứa con gái, và sau đó ít lâu
bị mất trí nên tự vẫn. Đứa con gái nhỏ sống vất vưởng không người nuôi
dưỡng giữa bọn tướng giặc, cho đến một khi có một vị giáo sĩ đi hành
hương thấy vậy bèn động lòng trắc ẩn đem em bé ấy về nuôi cho đến khi
lành mạnh. Cuộc soi kiếp cho biết rằng người mẹ đã tự tử chỉ vì không
thể chịu khuất phục theo ý muốn của người khác; và "Linh hồn này đã thất
bại trong sự thử thách đó, cô tự tử chỉ vì muốn thỏa mãn lòng tự kiêu
của mình, chứ không phải vì lý do tự vệ để bảo tồn trinh tiết, hay giữ
gìn lý tưởng."
Cuộc soi kiếp không cho biết rằng người đàn bà
có tâm địa kiêu căng, ngã mạn, tự tôn và thà rằng cô tự hủy mình chớ
không chịu bị đè nén khuất phục, mặc dầu y còn có một trách nhiệm với
đứa con gái nhỏ mới sinh ra.
Xét
về tâm tính của cô trong kiếp này, nó biểu lộ dưới những cử chỉ tự do
và hiên ngang như đàn ông, người ta sẽ hiểu rằng có lẽ cái thói tự kiêu
của cô trong kiếp sống ở Ba Tư, chính là điều chướng ngại ngăn cách cô
với phái đàn ông trong kiếp hiện tại. Chính sự thiếu mềm dẻo, tế nhị, sự
cứng cỏi ương ngạnh của cô làm cho bọn đàn ông tránh xa và không muốn
làm thân.
Điều lạ lùng là trong
kiếp này, cô luôn luôn mong muốn có con. Nếu các bà dì của cô không ngăn
cản, thì có lẽ cô đã nuôi một đứa con nuôi từ lâu. Có một điều cô mang
theo từ kiếp trước, là cô thường nghĩ đến sự tự vẫn. Từ khi có cuộc soi
kiếp đưa đến sự giải thích hợp lý về tình trạng của cô, cô không còn coi
sự tự vẫn như một lối thoát nữa, vì hiểu rằng những gì mà cô muốn trốn
tránh trong lúc hiện tại, sẽ trở lại với cô trong một tương lai về sau.
Tuy
thế, trong một cuộc soi kiếp nữa, cô được biết rằng cô còn có thể hy
vọng một cuộc hôn nhân trong kiếp này, nhưng vào lúc quá tuổi xuân; và
trong khi chờ đợi, cô nên giúp đỡ bằng mọi cách những người mà cô tiếp
xúc trong đời sống hằng ngày. Khi hỏi rằng còn bao lâu nữa cô mới có
được cái hạnh phúc đó, thì được trả lời rằng: "Khi nào cô tỏ ra xứng
đáng thì điều đó sẽ đến." Có những lúc khác, cô được biết rằng hiện nay
cô đang ở trong một thời kỳ thử thách. Khi cô hỏi: "Tại sao trong khoảng
năm năm vừa qua, cô không hề gặp được một người đàn ông nào?" thì câu
trả lời đó là: "Đó là để thử thách cái mục đích chính của cô trong kiếp
hiện tại."
Trên đây là hai
trường hợp mà sự tự tử và bỏ con cái bơ vơ trong kiếp trước đã gây nên
cái quả báo cô đơn tẻ lạnh, và thất vọng trong sự mơ ước thành lập gia
đình trong kiếp này. Trong những tập hồ sơ Cayce, còn có một trường hợp
thứ ba; đó là của một nữ giáo sư âm nhạc ở tiểu bang Texas, Hoa Kỳ; bà
này cũng ở trong một tình trạng tương tự với những lý do giống nhau: Cô
đã tự tử trong kiếp trước dưới thời kỳ quân chủ ở nước Pháp.
Tuy
nhiên người ta không thể căn cứ vào ba trường hợp để đi đến một kết
luận chung về quả báo của những người bị sống trong cảnh cô đơn, độc
chiếc, mà sự tự tử có lẽ là nguyên nhân gây ra trong kiếp trước. Ông
Manly Hall, tác giả quyển "Luân Hồi: Một lẽ Tuần Hoàn Cần Thiết Của Đời
Người," nói rằng quả báo của sự tự vẫn là trong kiếp sau, đương sự sẽ bị
chết vào lúc mà y ham muốn sống và yêu đời nhất. Trong các hồ sơ Cayce,
không thấy có trường hợp nào xác nhận điều đó, nhưng xét ra thì nó rất
hợp lý.
Tuy nhiên, sự cô đơn và
không chồng trong kiếp hiện tại có thể có nhiều nguyên nhân khác. Thí dụ
như trường hợp dưới đây cho ta thấy có một lý do khác hẳn. Xét về
trường hợp này, người ta nghĩ đến câu nói của ông Oscar Wilde: "Trong
đời chỉ có hai điều khổ: điều thứ nhất là muốn mà không được; điều thứ
hai là: được như ý muốn!"
Câu
nói mâu thuẫn lạ kỳ này căn cứ trên sự kiện rằng con người vì bởi vô
minh nên thường xét đoán sai lầm giá trị của cuộc đời. Những chuyện đời
xưa kể chuyện một bà tiên cho một người kia được đưa ra ba điều ước
nguyện rồi y sẽ được như ý muốn. Câu chuyện ấy chỉ cho chúng ta thấy
rằng con người thường có những ước vọng dại dột điên rồ, và phải gánh
chịu lấy hậu quả tai hại của sự dại dột ấy. Câu chuyện ấy có một ý nghĩa
tượng trưng rất thâm trầm về hai sự kiện này: Một là phần đông người
đời không biết rõ họ muốn gì; và hai là sự đau khổ của con người là phần
nhiều do bởi những sự ước vọng sai lầm, vì thiển kiến, vô minh, và
thiếu óc sáng suốt.
Trường hợp sau đây đã xảy ra
hồi thời kỳ ở châu Atlantide, và đương sự hãy còn chịu sự quả báo ở kiếp
này. Đó là một người đàn bà độ 40 tuổi, có một thân hình nặng nề và thô
kệch, nhưng điều này một phần lớn là do bởi sự thiếu thể dục và sinh
hoạt cẩu thả. Bà không bao giờ dùng đồ trang sức; quần áo mặc cũng rất
xuề xòa, không theo thời trang. Bà chọn y phục theo tiêu chuẩn tiết kiệm
và ích lợi hơn là để chưng diện và làm đẹp. Bà có những nét mặt đều dặn
và nếu được săn sóc ở mỹ viện thì bà có thể trở thành một phụ nữ rất
đẹp. Ngoài ra bà cũng có những cử chỉ duyên dáng, mặn mà, dễ thương.
Trình độ văn hóa chỉ đến mức tiểu học; bà làm việc trong các nhà máy và
làm việc thủ công để nuôi thân. Trong một cuộc trắc nghiệm tâm lý, bà có
điểm cao nhất về mặt giao tế xã hội và tôn giáo, vì những thích thú lớn
nhất của đời bà là đọc các sách Thánh Kinh tôn giáo, và làm việc cứu tế
xã hội dưới một hình thức nào đó. Tuy vậy, bà vẫn sống một cuộc đời cô
độc, đơn chiếc. Những người trong gia đình không ai cùng chia sẻ những
quan niệm của bà về tôn giáo; trong đời bà, bà không hề biết có gì gọi
là hương vị ái tình, hay tình yêu lãng mạn.
Nói
về quan điểm tâm lý, người đàn bà này thuộc về một trường hợp rõ rệt
của sự "Phản ứng nam tính" (Protestation masculine), nghĩa là từ chối
hay phủ nhận vai trò nữ tính của mình. Sự phản ứng này biểu lộ rõ rệt
trong cái thái độ hiếu chiến và chống đối những gì thuộc về nữ tính của
bà; thí dụ như việc không chịu trang điểm hay làm đẹp để hấp dẫn bọn đàn
ông. Khoa tâm lý học có thể đưa ra một giải thích về thái độ đó, nhưng
sự giải thích này vẫn còn hãy rất thiếu sót. Cuộc soi kiếp bằng Thần
Nhãn của ông Cayce đã đưa ra sự giải đáp cho vấn đề này.
Trong
kiếp cuối cùng của bà vừa rồi, bà là một thân nhân của Thánh Jean
Bastiste, và nhờ đó bà sinh trưởng trong một bầu không khí đạo đức thâm
nghiêm. Điều đó cũng là cái nguyên nhân làm cho bà có khuynh hướng tín
ngưỡng tôn giáo trong kiếp này. Trong tiền kiếp kế đó, bà sinh làm đàn
ông ở xứ Palestine thời cổ, tại đây y làm nghề thợ mộc và thợ đồng; điều
này dường như đã để lại cho bà những quan niệm thực tế và những khả
năng về máy móc trong kiếp hiện tại. Trong kiếp trước nữa, bà là một
người đàn bà có địa vị cao ở châu Atlantide, tại đây, một mối tình dang
dở trong đời đã đem đến cho bà một sự xáo trộn tinh thần và nhiều đau
khổ. Kết quả là "Iinh hồn này quyết định từ nay về sau sẽ không bao giờ
yêu một người nào có thể làm cho bà bị thất vọng và gây cho bà những vết
thương lòng." Và đó là cái nguyên nhân làm cho bà quyết định sống tự do
ngoài vòng trói buộc và đau khổ của tình trường. Bởi đó, tình trạng độc
thân và đơn chiếc của bà trong kiếp này không phải là do quả báo gây
ra. Trong trường hợp này không có sự liên hệ về nhân quả như trong những
trường hợp tự tử đã kể trên, mà chỉ có sự hành động của nguyên tắc liên
tục, nó tùy nơi sức mãnh liệt của sự ham muốn. Ngày xưa, bà đã quyết
định thái độ là sẽ không bao giờ yêu ai, nhất là không để cho tình cảm
lôi cuốn bà đến bọn đàn ông. Bà có quyết định này, không phải do một
điều ước nguyện tâm linh hay do lòng bác ái; mà là do ý muốn của bản
ngã, quyết không bao giờ để cho bị hạ thấp nhân cách của mình vì ban rải
tình yêu cho kẻ khác. Trong giai đoạn trung gian, bà không bao giờ tìm
thấy có lý do nào để thay đổi thái độ. Và ngày nay, bà phải chịu những
hậu quả hợp lý cua cái quyết định đó, cho đến khi nào bà có thể thay đổi
ý định và thái độ xử thế về vấn đề này.
Cuộc
soi kiếp không cho biết rõ rằng bà có hy vọng thành hôn hay không trong
kiếp này. Nhưng ít nhất, bà đã cố gắng để có thể đem sự săn sóc và tình
thương cho kẻ khác. Vì thiếu tình yêu, bà mới nhận thấy cái giá trị của
nó. Trong sự cô đơn, bà đã thấy sự chai lòng, sắt đá của mình xưa kia
là một điều tội lỗi cần phải được sửa đổi.
Nhà
tâm lý học Carl Jung nói rằng mỗi người đều có đủ hai phần nam tính và
nữ tính trong bản chất của mình, nhưng cái nọ có phần trội hơn cái kia,
tùy theo trường hợp riêng của mỗi người. Linh hồn người hàm xúc những
khả năng tiềm tàng chưa khai mở thuộc về phái đối tượng. Sự kiện tâm lý
này, mà ông Carl Jung đã khám phá sau nhiều năm khảo cứu tìm tòi, hoàn
toàn phù hợp với quan niệm trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce về
nguồn gốc và sự tiến hóa của con người. Nam và Nữ đều có những đặc tính
riêng; đại khái như uy lực, cương cường, tranh đấu, hung bạo, thuộc về
nam tính; sự hiền từ, dịu dàng, mềm mỏng, thụ động, thuộc về nữ tính.
Người thuần Nam tính là một người rất thiếu sót và bất toàn. Bởi đó y
cần được bổ khuyết bằng những đức tính thuộc về phái Nữ. Trong hôn nhân,
hai tính nam và nữ đều bổ trợ cho nhau đến một mực độ nào đó, do sự hội
hiệp của những đức tính tương phản nhau. Trong một cặp vợ chồng, mỗi
người đều dung hòa, bổ khuyết, sửa đổi lẫn cho nhau. Nhưng sự sửa đổi
này vẫn hãy còn bất toàn. Trong một kiếp sống ở thế gian, một người trội
hơn về phần Nam tính không đủ dung hòa bằng những đặc điểm nữ tính của
người vợ y, và trái ngược lại. Nhưng nhiều kiếp sống liên tục làm đàn
ông và đàn bà giúp cho con người có những kinh nghiệm bổ trợ dung hòa lẫn
nhau. Một lần nữa, thuyết Luân Hồi đưa đến cho ta một giải đáp về các
vấn đề khó khăn: Chính do nhiều kiếp luân hồi sinh tử mà con người mới
có thể phát triển tâm linh một cách hoàn toàn.
Bất
luận rằng những nguyên nhân của sự cô đơn hiu quạnh là như thế nào, dầu
cho đó là sự tự vẫn, sự quyết định không yêu ai, hay một lý do nào
khác, người ta phải nhìn nhận rằng tình trạng độc thân là một cơ hội để
tu tiến về phần nội tâm và về phương diện tiến hóa tâm linh. Muốn có
bạn, ta phải tỏ ra sự thiện chí và tình thân hữu; muốn được yêu, ta phải
ban rải tình thương. Bằng cách trau dồi tình thương và lòng bác ái để
cho xứng đáng với nguyện vọng mình, những kẻ cô đơn hiu quạnh có ngày
cũng sẽ đạt được hạnh phúc của tình yêu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét