Chương 12
Nguyên Nhân Của Quái Trạng Tâm Lý
Ngày
nay, nhiều người đã quen thuộc với cái tên của bác sĩ Freud và danh từ
tiềm thức. Tuy nhiên, nhiều người không biết rằng bác sĩ Freud đã khám
phá ra tiềm thức trong khi ông theo đuổi những cuộc sưu tầm về giấc ngủ
thôi miên. Vì những người ngủ mê trong giấc thôi miên có thể nhớ lại
những sự viếc xảy ra từ thuở nhỏ mà họ đã hoàn toàn quên hẳn trong lúc
bình thường, nên ông Freud mới đưa ra giả thuyết rằng trạng thái tiềm
thức là một kho ký ức giữ gìn những tài liệu cũ mà người ta không thể
nhớ lại bằng cách nào khác. Về sau, ông Freud bỏ không dùng khoa thôi
miên như một kỹ thuật chữa bịnh nữa, vì trong nhiều trường hợp, nó không
được hoàn mỹ, và ông tiếp tục thí nghiệm những phương pháp khác để thám
hiểm những vực sâu thẳm của tiềm thức. Tuy thế, người ta cũng đã coi
khoa thôi miên như là nguồn gốc của khoa phân tâm học (psychanalyse).
Trong
lĩnh vực tâm lý theo thuyết Luân Hồi, khoa thôi miên có thể có một vai
trò tương tự. Thần Nhãn của ông Cayce dường như chỉ rằng một người trong
giấc thôi miên có thể khám phá những kiếp trước của những người khác.
Một sự kiện quan trọng hơn nữa là dường như một người trong giấc thôi
miên cũng có thể nhìn thấy và sống lại những tiền kiếp của chính mình.
Những
kinh nghiệm thụt lùi về quá khứ trong giấc thôi miên chỉ rằng trong
tiềm thức của một người, được giữ gìn ký ức của tất cả mọi việc đã xảy
ra từ khi y mới sinh. Một người trong giấc thôi miên, thụt lùi về dĩ
vãng đến năm y lên mười tuổi, khi người ta truyền lệnh cho y viết tên
của y, thì y viết với tuồng chữ của tuổi thơ ấu hồi y lên mười. Khi y
thụt lùi về năm lên sáu tuổi y viết với tuồng chữ còn non nớt hơn nữa;
khi y thụt lùi lại năm lên ba, y cầm viết chì vẽ nguệch ngoạc vài nét
không có ý nghĩa gì cá HIện tượng thụt lùi về quá khứ trong giấc thôi
miên kể trên thường được thí nghiệm trong những lớp giảng về khoa tâm lý
ở trường Đại Học, và những sinh viên tâm lý học đã quen thuộc với hiện
tượng ấy. Nhà bác học Pháp De Rochas hồi thế kỷ mười chín tuyên bố rằng
với những kỹ thuật thụt lùi về dĩ vãng như đã kể trên, ông có thể nhớ
lại những kỷ niệm đã qua trong quá khứ. Quyển sách của ông nhan đề
"Những Kiếp Sống Liên Tục" (Les Vies Successives) không được coi như một
quyển sách khoa học, nhưng có lẽ một ngày kia nó sẽ được hoan nghênh
như một công trình tiền phong trên địa hạt tâm lý về thuyết Luân Hồi.
Những quái trạng tâm lý được xem xét bằng hiện tượng Thần Nhãn của ông
Cayce, giải thích tánh chất của trí nhớ và tiềm thức, và có vẻ xác nhận
rằng tiềm thức con người thật ra còn thâm sâu hơn là những điều mà các
nhà phân tâm học có thể hiểu. Một trong những quái trạng tâm lý lạ lùng
nhất là sự sợ hãi. Những nhà phân tâm học định nghĩa điều này như là sự
sợ hãi quá độ, mà nguồn gốc là do bởi nhiều tình trạng phức tạp gây nên.
Sự sợ hãi dị thường này làm cho con người sinh lòng thù nghịch, gây
hấn, hoặc cảm thấy mình có tội lỗi rất nặng nề. Những xúc cảm ẩn tàng
này về sau biểu lộ dưới hình thức một sự sợ hãi vô lý và bất thường đối
với một vài sự vật ở ngoại cảnh, thí dụ như sợ giông mưa, sấm sét, sợ
dao, sợ nước... Có nhiều trường hợp; những kinh sợ đó được truy nguyên
từ một việc xảy ra trong một kiếp trước, làm cho y bị đau khổ hay thiệt
mạng.
Một thí dụ lý thú là
trường hợp của một người đàn bà từ thuở thiếu thời đã sợ những gian
phòng kín. Ngồi trong rạp hát, cô phải chọn một chỗ ngồi gần chỗ cửa đi
ra. Ngồi trên xe buýt, nếu xe chật chỗ và quá đông người, cô bước xuống
đợi chuyến xe khác. Trong những khi đi nghỉ hè, đi chơi ở miền núi, cô
rất sợ chui vào những hang, động, hầm hố hay bất cứ chỗ nào bốn bể kín
mít, không có ngõ ra. Người trong gia đình không ai hiểu lý do của thái
độ lạ lùng này, vì không ai có thể nhớ lại hồi thuở nhỏ đã xảy ra việc
gì làm cho cô có sự sợ sệt như vậy. Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết
rằng trong một kiếp trước, cô chui vào một cái hang, thình lình hang
sụp lở, bị đè bẹp dưới đống đá, sỏi, cát vụn, và chết ngộp. Ký ức về cái
chết rùng rợn này ngày nay vẫn còn in sâu trong tiềm thức của cô.
Một
thí dụ khác là trường hợp của một người đàn bà nọ có hai điều kinh sợ:
Sợ dao bén và sợ những loài thú có lông, nhứt là những loài thú nhà. Cô
nổi cơn hoảng loạn mỗi khi có một vật bén nhọn ở gần bên mình hay khi
thấy ai xử dụng gươm dao... Cuộc soi kiếp cho biết trong một kiếp trước ở
Ba Tư, người đàn bà này bị giết vì một lưỡi gươm trong lúc chạy loạn.
Còn việc sợ thú có lông thì khó hiểu hơn, vì trong gia đình, người nào
cũng có nuôi chó hay nuôi mèo, người anh của cô lại thích nuôi thú.
Nhưng mỗi khi cô nhìn thấy con chó hay con mèo thì giựt mình kinh sợ như
người gặp phải rắn độc. Hơn nữa, cô không khi nào mặc áo choàng bằng da
thú, hoặc cổ áo may bằng lông thú. Những nhà tâm lý học có thể tìm căn
nguyên sự sợ sệt của cô trong những sự giao tế với người trong gia đình,
thí dụ như lòng ganh ghét đố kỵ đối với người anh ưa nuôi thú chẳng
hạn, và giải đáp vấn đề ấy như là sự biểu lộ lòng căm thù nghịch của cộ
Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp truy nguyên sự sợ sệt này từ một kiếp
trước ở châu Atlantide, khi đó cô đã trải qua một kinh nghiệm khủng
khiếp về những loài vật có hình thù ghê rợn. Cuộc soi kiếp cũng đã giải
thích nhiều quái tượng sợ hãi khác và truy nguyên ra từ những kiếp
trước. Sự sợ hãi bóng tối của một người nọ được giải thích rằng trong
kiếp trước, y là một chánh trị phạm dưới thời Louis 16 và bị giam cầm
trong một đài cao ở Pháp cho đến khi chết bỏ xác trong ngục tối. Một
người nữa sợ dao bén. Một người nữa sợ dao bén; đến lúc truy nguyên ra
thì được biết rằng kiếp trước y đã trải qua một kinh nghiệm rùng rợn
trong một phòng tra tấn ở Pháp, và đã bị tra khảo bằng những thứ hình cụ
khủng khiếp, gồm cả sự tra tấn bằng hình cụ bánh xe (rouet). Một người
nọ có những cơn hoảng sợ bất thần, dường như y cảm thấy rằng ngày tận
thế sắp đến! Cuộc soi kiếp truy nguyên sự sợ sệt này ở một kiếp trước,
vào thời kỳ một phần châu Atlantide bị sụp lở chìm xuống đáy biển. Trong
khi đó y đang ngồi một mình trên một ngọn đồi cao để xem sách, thình
lình cơn động đất làm rung chuyển trọn cả vùng chung quanh như trời long
đất lở và y nhìn thấy nước biển dâng lên bốn phía chung quanh ngọn đồi
của y.
Một người đàn bà kia sợ
thú dữ một cách lạ thường. Kiếp trước ở La Mã, người chồng bị tội và bị
bắt buộc phải đấu sức với loài thú dữ trong võ trường.
Hai
người kia sợ nước một cách rất vô lý. Truy nguyên ra thì được biết rằng
kiếp trước họ đi tắm sông, bị giòng nước xoáy cuốn đi và bị chết đuối.
Một người nữa cũng sợ nước, được biết rằng quái trạng này là do bởi
trong tiền kiếp hồi thời đế quốc La Mã, y đã bị đắm tàu chết đuối trong
một cơn bão nổi lên ở giữa biển.
Khi
chúng ta xét kỹ những trường hợp này theo quan điểm tâm lý thông
thường, chúng ta có thể tự hỏi rằng phải chăng tất cả những thí dụ trên
đây cũng có thể được giải thích một cách thỏa đáng bằng cách tìm ra một
nguyên nhân trong kiếp hiện tại. Thí dụ, người đàn bà sợ ngồi trong
phòng kín, có thể đã bị nhốt trong một phòng tối lúc lên bốn tuổi, nhưng
ngày nay cô đã quên mất việc đó. Do sự khêu gợi trong giấc thôi miên,
người ta có thể đào xới việc ấy trong ký ức đã lãng quên từ lâu và nhà
tâm lý học có thể căn cứ trên tài liệu đó mà hiểu những vấn đề xúc động
thường gây nên các chứng bịnh loạn thần kinh. Nhiều người đã có kinh
nghiệm cùng một loại giống như trên, nhưng lại không có sự sợ hãi một
các vô lý. Như vậy tại sao có người lại có sự thụ cảm đặc biệt đó? Nếu
tất cả những người đã trải qua những cơn xúc động tình cảm đều đâm ra sợ
ngồi trong phòng kín, thì trên thế gian, người thuộc về hạng này sẽ
nhiều đến nỗi người ta phải đóng cửa tất cả phòng điện thoại, buồng ngủ,
những gian phòng độc chiếc, và vài loại hộp đêm, như là những nơi hăm
dọa sự thăng bằng của tâm hồ, trí não và sức khỏa công cộng.
Trong
tập hồ sơ Cayce, vấn đề này được giải đáp như sau: Sự kiện rằng một đứa
trẻ tỏ ra thụ cảm hơn một đứa trẻ khác trong một tình trạng xúc động
tâm lý nhất định, có thể là do kinh nghiệm ở một kiếp trước. Hoàn cảnh
tạo ra trong kiếp này là cái phương tiện làm thức động trở lại cái ấn
tượng kinh khủng đã bị vùi lấp trong ký ức. Theo thuyết Luân Hồi, chúng
ta thấy rằng tiềm thức cũng ví như một cái hộp có hai đáy, nó vốn thâm
sâu hơn là người ta tưởng trong lúc bình thường. Vài nhà tâm lý học,
nhứt là Carl Jung, cảm thấy rằng những lớp sâu thẳm trong tiềm thức cần
được nêu ra để giải thích những quái trạng về tâm lý mà người ta không
thể giải thích được bằng cách nào khác.
Theo
quan điểm của ông Cayce, mỗi người đều có những ký ức tiềm tàng đột
khởi từ một quá khứ xa xăm, do những kinh nghiệm của y đã trải qua trong
những tiền kiếp. Tất cả những sự sợ hãi, thù ghét, thương yêu và những
tình cảm vô ý thức của y đều là thành phần của một cái sản nghiệp tinh
thần mà y tự để lại cho mình, chẳng khác nào như người ta tích trữ của
cải ngày hôm nay để dùng lại cho một ngày về sau. Con người văn minh tân
tiến ngày hôm nay đã từng là một người dã man mọi rợ trải qua nhiều
kiếp trong dĩ vãng, và bởi đó, thật là một điều tự nhiên nếu y vẫn còn
một vài thú tính mà y chưa tinh luyện và loại trừ. Trong cái dĩ vãng xa
xăm đó, chính y đã từng trải qua những điều sợ hãi khủng khiếp trong
rừng rậm, và những sự tàn nhẫn độc ác của loài người. Vậy thì thật là
một điều tự nhiên nếu ngày nay, thỉnh thoảng y vẫn cảm thấy những cơn sợ
hãi bất thường, vô lý, và những nỗi lo âu phiền muộn vô căn cứ. Chính y
đã từng thương yêu, ghét bỏ hay đố kỵ nhiều người khác mà y tiếp xúc
trong dĩ vãng: Vậy thì là lẽ tự nhiên nếu ngày nay y cũng lại cảm thấy
đối với chính những người đó, đã cùng đầu thai lại trong kiếp này những
mối thiện cảm, thương yêu hay thù hận, ghét bỏ một cách vô lý và không
thể giải thích được lý do.
Những
ký ức thuộc về kiếp trước có thể biểu lộ trong kiếp này bằng những
phương tiện khác hơn là những sự sợ hãi hay những quái trạng tâm lý. Ông
Cayce đã căn cứ trên thuyết Luân Hồi để giải thích hiện tượng về những
giấc mộng tái diễn trở lại nhiều lần. Một thí dụ lạ lùng về vấn đề này
là của một người đàn bà đưa ra câu hỏi sau đây: "Tại sao hồi thuở nhỏ
tôi thường năm mộng thấy cảnh tận thế, với những luồng mây đen bao phủ
và tiêu diệt cõi thế gian?" Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce trả lời rằng
trong một kiếp trước ở châu Atlantide, người đàn bà ấy đã làm nghề giáo
sĩ và y sĩ, và đã chứng kiến một trong những vụ thiên tai kinh khủng làm
sụp đổ châu này dưới lòng biển sâu. Cái ấn tượng rùng rợn đó vẫn còn in
sâu trong tâm hồn cô đến nỗi nó thường xuất hiện trở lại trong giấc ngủ
trong kiếp này.
Một trường hợp
lý thú khác là của một em gái nhỏ bốn tuổi, thường làm cho mẹ nó lo âu
vì mỗi đêm nó đều giựt mình tỉnh giấc, khóc la bài hãi một cách vô cùng
sợ sệt. Em nhỏ này đầy đủ sức khỏa và không có bịnh tật chị Mẹ nó bèn
viết thơ cho ông Cayce để xin ông giải thích về quái trạng của đứa bé.
Cuộc soi kiếp cho biết kiếp trước em chết bất đắc kỳ tử trong trong trận
Thế Chiến Thứ Hai ở Pháp. Nhưng chỉ trong chín tháng sau, em đã đầu
thai trở lại trong một gia đình ở Bắc Mỹ. Trong khoảng trung gian ngắn
ngủi giữa hai kiếp sống, những kỷ niệm rùng rợn về chiến tranh binh lửa
vẫn chưa xóa mờ trong ký ức của em và thường xuất hiện trong giấc ngủ.
Những
trường hợp kể trên không khỏi làm cho chúng ta lại nêu ra câu hỏi về
vấn đề trí nhớ. Nhiều người phản đối thuyết Luân Hồi thường đưa ra lập
luận này, là nếu có Luân Hồi thì tại sao chúng ta không nhớ lại những
kiếp trước? Điều này mới nghe qua thì dường như lạ lùng, nhưng thật ra
nó không lạ gì lắm nhưng thật ra nó không lạ gì lắm nếu chúng ta cũng
không nhớ được hết những việc gì đã xảy ra trong đời chúng ta lúc còn
thơ ấu hay trong thuở thiếu thời. Trí nhớ của con người là một cái gì
rất mỏng manh, tế nhị, và những sự việc trôi qua trong đời chúng ta
chẳng khác nào như nước chảy giữa dòng, cho nên khi nói rằng ta không
nhớ một việc gì, không có nghĩa là việc ấy không có xảy ra.
Nếu
chúng ta hỏi một người bạn câu này: "Anh đã làm gì vào đúng 10 giờ 26
phút buổi sớm mai ngày 19 tháng 4 năm 1939?" Chúng ta có thể đem hết cả
gia tài để đánh cuộc rằng y không thể nhớ từng chi tiết rõ ràng như y đã
làm gì vào ngày hôm đó, y mặc y phục như thế nào, nói những chuyện gì,
với ai... Việc y không nhớ rõ các việc đã xảy ra trong một ngày giờ nhất
định trong đời của y, không có nghĩa là y đã không trải qua những giờ
Bởi
đó, sự phản đối thuyết Luân Hồi bằng những lập luận nói trên không thể
đứng vững. Trước hết sự lãng quên là một hiện tượng rất thông thường và
rất tự nhiên của con người. Sau nữa, trí nhớ có một tính chất rất đặc
biệt là rất chóng quên phần chi tiết, mà chỉ giữ lại cái nguyên tắc đại
cương. Thí dụ: Mỗi người có học thức đều có thể nói rằng 7 lần 7 là 49,
và 12 lần 12 là 144. Ykhông nhớ rằng y đã trải qua những giờ mệt nhọc
vất vả trong lớp học hồi thuở thiếu thời để làm những bài toán đó, nhưng
khả năng suy tính và sự thông hiểu toán pháp hãy còn tồn tại trong trí
óc của y.
Những sự hiểu biết
khác của con người cũng được giải thích bằng cách đó, chẳng hạn như sự
cẩn thận đề phòng khi ta đứng gần lửa, sự dè dặt và sợ chó khi bước vào
nhà người lạ; khả năng về âm nhạc, khiêu vũ, hay sự thông hiểu, khéo léo
của ta về bất cứ một ngành nào. Việc chúng ta biết đi biết đứng chứng
tỏ rằng có một thời kỳ chúng ta đã tập đứng, tập đi, nhưng trong một vạn
người, không có đến một người nhớ rõ những sự cố gắng vất vả khó khăn
mà y đã làm từ thuở ấu thơ để có thể đi đứng tự nhiên được như bây giờ.
Như vậy, sự lãng quên về phần chi tiết vẫn không làm mất đi trí nhớ về
phần nguyên tắc, và tất cả những khả năng và đức tính của con người trên
phương diện luân lý, trí tuệ, đạo đức tâm linh, đều là sự tổng hợp tất
cả những kinh nghiệm mà y đã trải qua trong những tiền kiếp, mà ngày nay
đã quên mất những chi tiết.
Lý
luận thứ hai mà người ta dùng để phản đối thuyết Luân Hồi lại càng tế
nhị hơn. Họ cho rằng tật không phải lẽ mà bắt buộc một cá nhân phải chịu
trách nhiệm về những hành động mà một cá nhân khác đã làm. Họ cho rằng
quả báo và sự trừng phạt chỉ có một ý nghĩa là khi nào kẻ phạm tội có ý
thức được và nhìn nhận tội lỗi của ỵ Sự trả lời của Đao. gia về lập luận
này căn cứ trên điều mà họ gọi sự liên quan giữa cá tính và linh hồn.
Linh
hồn bất diệt ví như một tài tử ở ngoài vòng sân khấu, có thể nhớ rõ quá
khứ, nhưng khi chuyển kiếp làm người, chẳng khác nào như người tài tử
đóng một vai trò nhất định, thì sự mầu nhiệm của luật Thiên Nhiê khiến
cho y không nhớ điều gì cả ngoài ra phần nguyên tắc đại cương của những
kinh nghiệm mà y đã thâu thập được trong các kiếp trước. Ví như anh tài
tử khi ngồi tại nhà có thể nhớ rõ tất cả những lớp lang của vở kịch
Phụng Nghi Đình mà y đã đóng, nhưng trên sân khấu, khi y đóng một vai
trò nhất định, chẳng hạn như vai Lữ Bố, thì y chỉ biết có một vai trò đó
mà thôi chứ y không thể nghĩ đến vai trò khác. Cũng y như thế, linh hồn
người chứa đựng ký ức của tất cả mọi sự đã xảy đến cho y trong những
vai trò của các nhân vật mà y đã từng đóng ở các tiền kiếp. Lúc bình
thường thì cá tính riêng biệt của y không nhớ được những kỷ niệm đó
ngoại trừ khi nào y dùng những phương pháp đặc biệt và bất thường để rút
lấy những kỷ niệm đó trong cái kho ký ức vô tận của linh hồn.
Lập
luận chống thuyết Luân Hồi kể trên cho rằng thật là không phải lẽ và
trái với luân lý nếu một người bị trả quả và đau khổ vì những hành động
mà có lẽ y đã làm trong kiếp trước, nhưng ngày nay y đã quên mất, không
còn nhớ gì nữa. Lập luận này không thể đứng vững, cũng chẳng khác nào
như lý luận cho rằng việc một người lớn bị đau khổ vì những sự xung đột
vô ý thức của y từ thuở ấu thơ, cũng không hạp với luân lý.
Sự
lãng quên, nó che khuất dĩ vãng và chỉ cho chúng ta thấy có một phần
hiện tại ngắn ngủi, là một điều cần thiết và che chở đối với chúng tạ
Ngoài ra những thí dụ về việc sợ hãi vô lý và những giấc mộng tái diễn
nhiều lần, người ta còn thấy trong những tập hồ sơ Cayce những quái
trạng tâm lý khác nữa. Thí dụ như những ảo ảnh ẩn hiện chập chờn, trong
nhiều trường hợp thường được truy nguyên từ những ký ức bất thường thuộc
về kiếp trước. Có một trường hợp, cuộc soi kiếp cho biết rằng những
trung tâm bí yếu trong thân người, tiếng Phạn gọi là Chakra (Luân Xa),
tình cờ khai mở, làm cho luồng Xà hỏa (Kundalini) đi xuyên qua những
Luân Xa và gây nên những ảo ảnh hay ảo giác. (Luồng xà hỏa Kundalini là
một mãnh lực thần bí trong cơ thể con người nằm trong đốt cuối cùng của
bộ xương sống và có liên quan trực tiếp đến bộ phận sinh dục và năng lực
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết trong nhiều trường hợp, một
sự rối loạn thần kinh có nhiều nguyên nhân hoàn toàn thuộc về thể chất,
và đã được chữa khỏi một cách mầu nhiệm bằng các phương tiện sinh lý.
Chúng ta đã thấy trong Chương 2, trường hợp của cô thiếu nữ được chữa
khỏi bịnh loạn trí nhờ nhổ một cái răng cấm mọc ngược. Một thí dụ hiển
nhiên khác là trường hợp của một người thư ký bưu điện bỗng nhiên đổi
tánh một cách lạ thường và thình lình trở nên gây gỗ, buồn bực và hung
bạo. Gia đình khuyên y đi khán bịnh và vào nằm bịnh viện để điều trị.
Các bác sĩ tuyên bố rằng y bị chứng khủng hoảng thần kinh, và người ta
bèn để y nằm riêng buồng kín. Vợ y yêu cầu ông Cayce dành cho y một cuộc
khán nghiệm bằng Thần Nhãn. Cuộc khán nghiệm cho biết y đã bị té ngã
nặng từ nhiều năm về trước, chạm mạnh vào xương hông làm đau tủy xương
sống, và điều này đã phản ứng toàn bộ Thần Kinh Hệ. Ông Cayce khuyên y
hãy điều trị bằng phương pháp nắn xương và trị bằng điện. Gia đình y
nghe theo lời. Trong sáu tuần lễ, bịnh nhân đã bình phục trở lại như
thường, và người ta để cho y tự do trở về nhà. Tuy nhiên, trong nhiều
trường hợp loạn trí, cuộc khán nghiệm cho biết rằng bịnh nhân bị tà ma
nhập xác ám ảnh. Xưa nay người ta vẫn tin rằng một vài chứng bịnh loạn
thần kinh nguyên nhân là vì ma nhập. Những người đọc bộ Thánh Kinh đều
biết rõ chuyện đấng Christ đã đuổi tà ma ra khỏi xác của một người điên,
và những người Gia Tô giáo đều quen thuộc với vấn đề các vị Cố đạo Gia
Tô vẫn tiếp tục thực hành những phép đuổi tà (exorcisme). Vấn đề này tự
nhiên là hoàn toàn xa lạ đối với khoa Tâm lý học hiện đại, và những nhà
chữa bịnh thần kinh ngày nay coi nó như một điều dị đoan đã lỗi thời.
Tuy nhiên, nếu người ta chấp nhận rằng linh hồn người vẫn còn tồn tai.
sau khi chết, thì không có lý do gì mà cho rằng những linh hồn bất hảo,
lưu manh hồi còn sống ở thế gian, sau khi chết lại không ám ảnh, khuấy
phá hay nhập vào xác một người khác.
Để
chữa bịnh tà, ông Cayce thường dùng phép điều trị bằng điện, và khuyên
bịnh nhân nên cầu nguyện, và tham thiền quán tưởng. Trong một trường
hợp, người bịnh được chữa khỏi trong vài tháng, chấm dứt sự ám ảnh của
những giọng nói thì thầm bên lỗ tai y, làm cho y sợ hãi đến phát bịnh.
Trường hợp này là do quả báo gây nên: Trong kiếp trước bịnh nhân đã dùng
tà thuật để ám hại kẻ khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét