Chương 17
Nghiệp Quả Giữa Cha Mẹ Và Con Cái
Trong
nhiều thế kỷ, gia đình là một tổ chức riêng biệt mà người gia trưởng là
người cha, hay người mẹ, theo phong tục ở một vài xứ. Những tổ chức gia
đình ấy vẫn luôn luôn tồn tại ở khắp nơi. Theo một quan niệm duy vật,
người ta coi những trẻ con như là một sở hữu của cha mẹ của chúng: Chúng
sinh ra do bởi sự mang nặng đẻ đau và hy sinh của người mẹ; chúng được
nuôi dưỡng do bởi sự làm lụng khó khăn vất vả của cha mẹ. Nói về phương
diện vật chất, những người làm cha mẹ có một thể chất khỏe mạnh hơn, già
dặn hơn thông minh hơn những đứa con; vì lẽ đó, họ có quyền ngự trị
trong gia đình.
Nhưng nói về
phương diện tâm linh, thì không hề có vấn đề cha mẹ là tuyệt đối cao cả
hơn con cái. Tất cả sinh linh trong Trời Đất đều là những đơn vị bình
đẳng của toàn thể một cơ cấu rộng lớn. Trên bình diện tâm linh, cha mẹ
không có sở hữu con cái, thậm chí cũng không phải là những người sáng
tạo ra con cái. Họ chỉ là những phương tiện cho những linh hồn của những
đứa con mượn chỗ đầu thai ở cõi thế gian. Một sự vận hành mầu nhiệm
trong cơ thể họ khiến cho họ giao hợp với nhau trong một lúc và làm vận
chuyển một cơ cấu cũng không kém mầu nhiệm, mà kết quả là sự cấu tạo và
sinh sản ra một thể xác hài nhị Cái thể xác đó trở nên chỗ nương ngụ của
một linh hồn khác cũng tiến hóa như chúng tạ Linh hồn ấy nhất thời bị
yếu kém và không biết nói, trách niệm và bổn phận của chúng ta trong sự
nuôi dưỡng cho nó lớn lên, đều là những kinh nghiệm rất quý báu cho tạ
Đó là những kinh nghiệm giúp ta khai mở đức hy sinh và bác ái, với một
tấm lòng thương cảm và trìu mến sâu xa thâm trầm.
Những
sự việc tốt lành kể trên chỉ xảy ra khi người làm cha mẹ không có lòng
chiếm hữu và áp chế con cái dưới một hình thức nào đó. Trong quyển "The
Prophet", ông Khalil Gibran viết như sau:
"Con cái của anh sinh ra, không phải là của anh.
Chúng
nó chỉ là con cái của "Sự sống bất diệt trường tồn" Chúng nó do bởi anh
sinh ra, chớ không phải là của anh. Và tuy chúng sống chung với anh
trong một nhà, nhưng chúng không thuộc quyền sở hữu của anh.
Anh chỉ là những cái cung nhờ đó những đứa con anh lấy đà vùng vẫy chẳng khác nào như mũi tên bắn ra tận bốn phương trời.
Người
Cung Thủ kéo sợi dây cung là nhằm mục đích hòa vui, và trong khi Người
yeếu cái mũi tên bay, Người cũng yêu cái cung còn ở lại."
Đối
với con cái, những bậc phụ huynh không nên có một thái độ áp chế của kẻ
bề trên, hoặc một thái độ ganh ghét ruồng bỏ. Một thái độ bình thản ôn
hòa là thái độ thích nghi nhất của người cha mẹ đối với con cái mà họ có
bổn phận nuôi dưỡng chăm nom. Họ chỉ có được thái độ ấykhi nào họ hiểu
biết điều chân lý căn bản này, là tất cả chúng sinh, tất cả mọi sinh
linh đều bình đẳng với nhau. Nói theo danh từ thường dùng trong những
cuộc soi kiếp của ông Cayce, những người làm cha mẹ là những con "Kinh
vận hà" để cho nguồn sinh hoạt đi xuyên qua, và nhờ đó những linh hồn có
phương tiện để đầu thai ở cõi trần. Bởi vậy những cặp nam nữ sắp sửa
thành hôn được khuyên nhủ và dặn dò về tánh cách thiêng liêng của sự
giao hợp giữa vợ chồng. Quan điểm này đúng với quan điểm triết học Ấn Độ
cho rằng vấn đề tình dục và sinh lý giữa nam nữ có một ý nghĩa thiêng
liêng và cao quý. Nhưng bất hạnh thay, khoa Thần học cổ truyền của đạo
Gia Tô lại coi mọi vấn đề liên quan đến sự sinh dục như là dấu vết của
tội lỗi. Do một sự hiểu lầm đáng tiếc về biểu tượng diễn tả trong Chương
La Genèse của bộ Thánh Kinh, toàn thể nhân loại bị coi như là kết quả
của "Tội lỗi nguyên thủy" gây ra bởi ông Adam và bà Evẹ Tuy rằng lễ hôn
phối hợp pháp hóa sự giao hợp giữa vợ chồng, người ta vẫn nghĩa rằng con
cái được sinh sản ra trong vòng tội lỗi. Đó là những quan niệm sai lầm
về vấn đề sinh lý tự nhiên của cơ thể con người theo như ý muốn của
Thượng Đế. Quan niệm sai lầm ấy có những hậu quả tâm lý rất tai hại, gây
nên những sự dồn ép sinh lý, ý niệm tội lỗi và những xung đột tâm lý
thuộc về loại trầm trọng và tê liệt nhứt.
Tuy
nhiên, giải pháp đối tượng của vấn đề này không phải là tự do luyến ái,
hay tự do thỏa mãn dục tình. Giải pháp thích nghi là sự thông hiểu một
cách tường tận rằng cơ năng sinh sản sáng tạo của con người là một quyền
năng thiêng liêng. Một cuộc soi kiếp nói: "Ái tình và sự giao hợp với
một thể xác tinh khiết là cái kinh nghiệm thiêng liêng cao quý nhất một
linh hồn có thể thâu thập trong một kiếp sống ở cõi trần." Quan điểm này
được nhấn mạnh trong nhiều cuộc soi kiếp, và người ta nhận thấy nó
trong những trường hợp mà một người phụ nữ muốn biết xem nàng có thể nào
có con được không? Trong những trường hợp đó đương sự thường yêu cầu
một cuộc khán bịnh rằng Thần Nhãn để xem nàng có thể tự chuẩn bị bằng
cách nào để thụ thai và sinh sản. Trong những cuộc khán bịnh đó, những
phép điều trị về cơ thể nêu ra rất nhiều, nhưng không có gì khác thường.
Có khác chăng là sự soi xét bằng Thần Nhãn giúp cho ông Cayce biết rõ
nhu cầu của mỗi cơ thể riêng biệt của mỗi người tùy theo trường hợp. Tuy
nhiên, những cuộc soi kiếp cũng nhấn mạnh về tánh cách quan trọng của
sự chuẩn bị tư tưởng và tâm linh, vì thái độ tinh thần của người mẹ sẽ
hấp dẫn những linh hồn cùng có một tâm trạng tương tự, theo luật "Đồng
thinh tương ứng; đồng khí tương cầu."
Cuộc
soi kiếp nói: Linh hồn này hãy nên biết rằng sự chuẩn bị tư tưởng và
tâm linh là một việc có tính cách sáng tạo, cũng cần thiết như sự chuẩn
bị về thể chất, có lẽ còn cần thiết hơn.
Đối
với một người đàn bà ba mươi sáu tuổi hỏi ông rằng bà ấy còn hy vọng có
con hay không, cuộc soi kiếp nói: "Bà hãy tự luyện mình thành một khí
cụ tốt lành hơn về mọi mặt thể chất, trí não, và tâm linh. Người đời
thường có thói quen chỉ xem sự thụ thai như một việc làm thuộc về thể
chất mà thôi."
Một cuộc soi kiếp
khác nói: "Do sự giao hợp, con người có dịp tạo nên một đường vận hà để
cho đấng Tạo Hóa có thể hành động xuyên qua nàng bằng quyền năng Sáng
Tạo của Ngài. Vậy đương sự hãy cẩn thận coi chừng thái độ của mình và
của người bạn trăm năm của mình khi các người tạo nên các cơ hội đó, vì
linh hồn đầu thai vào làm con các người sẽ có một tánh tình tùy thuộc
một phần nào ở thái độ của cha mẹ."
Những
cuộc soi kiếp cho biết rằng những mối liên hệ giữa cha mẹ và con cái
không phải do sự ngẫu nhiên tình cờ. Những sợi dây liên lạc thường đã có
sẵn từ những kiếp trước giữa người con với người mẹ hay người chạ Trong
những trường hợp rất hiếm mà sợi dây liên lạc đó không có, thì tình
trạng gia đình tạo nên cái hoàn cảnh thích ứng với nhu cầu tâm lý của
đứa trẻ. Những hồ sơ Cayce cho biết rằng vài đứa trẻ có một sợi dây
duyên nghiệp với người cha mà không có với người mẹ, hoặc đảo ngược lại,
có duyên nghiệp với người mẹ mà không có người chạ Trong những trường
hợp đó, thườgn có một trạng thái dửng dưng giữa đứa con với người cha
hay người mẹ mà nó mới quen biết lần đầu tiên trong kiếp này. Những
trường hợp dưới đây chỉ cho ta thấy một cách đặc biệt nhiều mối liên hệ
khác nhau giữa cha mẹ và con cái.
Hai
mẹ con người kia có một tình mẫu tử rất khắn khít: Họ đã là hai mẹ con
trong kiếp trước. Hai cha con người kia cũng có một tình phụ tử nồng
nàn: Trong một kiếp trước họ đã là hai anh em trong một gia đình.
Một
người mẹ không hạp với con gái của bà: Họ chưa từng có sự liên hệ gì
với nhau ở trong kiếp trước. Giữa một người con gái kia với người mẹ của
cô ấy, chỉ có một sự dửng dưng lạnh nhạt; cuộc soi kiếp cho biết kiếp
trước hai người là hai chị em ruột nhưng lại có một mối bất hòa trầm
trọng: Hai người thường xung đột cãi vả lẫn nhau, và vẫn chưa hòa thuận
trở lại. Hai cha con người kia kiếp trước là hai vợ chồng. Một người mẹ
và con gái thường xugn đột lẫn nhau: Trong kiếp trước, họ là hai bạn gái
tranh dành nhau một người đàn ông vàtranh dành địa vị. Trong hai mẹ con
người, người con trai hay lấn át người mẹ: Trong kiếp trước, họ là hai
cha con, với sự liên hệ gia đình trái ngược lại.
Những
trường hợp đó chỉ rằng sự hấp dẫn của con cái đến với cha mẹ là do bởi
sự hành động của nhiều nguyên tắc. Những nguyên tắc đó nhiều đều ẩn dấu
đối với cặp mắt phàm của chúng tạ Những hồ sơ Cayce giúp cho ta có những
tài liệu suy gẫm, nhưng không có đầy đủ chi tiết để cho ta có thể dịch
ra thành một định luật nhất định.
Theo
luật hấp dẫn, những người đồng thanh khí và giống nhau về tâm tình tánh
chất thường rút lại gần nhau. Nhưng đồng thời, vì những lý do nhân quả,
những kẻ thù nghịch cạnh tranh nhau và tâm tính tánh chất đối chọi nhau
thường cũng hay rút lại gần nhau. Một thí dụ điển hình là trường hợp
một đứa trẻ được ông Cayce soi kiếp khi mới lên năm tuổi. Cuộc soi kiếp
cho biết những đặc tính của đứa trẻ là thói ích kỷ, sự thờ ơ lãnh đạm và
ngoan cố không chịu phục thiện khi y có lỗi. Ycó những khả năng tiềm
tàng của một nhà khảo cứu khoa học. Trong một kiếp trước, y là một nhà
sưu tầm về tiềm lực của hơi nước như là một khí cụ sản xuất tinh lực. Ở
một kiếâp trước, y là một chuyên viên hóa học chế tạo cac loại chất nổ;
trong kiếp trước nữa y là một chuyên viên ngành cơ khí; và đi lùi về dĩ
vãng một kiếp nữa; người ta thấy y là một kỹ sư điện khí ở châu
Atlantidẹ Bốn kiếp dành cho sự hoạt động tích cực về ngành khoa học thực
dụng đã làm ch đương sự hoạt động tích cực về ngành khoa học thực dụng
đã làm cho đương sự phát triển những khả năng đặc biệt, nhưng y lại quá
thiên về giá trị của khoa học vật chất mà khinh rẻ giá trị của tình
thương, đức tính mỹ lệ, và sự hợp nhất tâm linh của mọi loài vạn vật.
Bởi
đó, y có một thái độ thản nhiên lạnh lùng đối với người chung quanh.
Cuộc soi kiếp còn cho biết rằng đứa trẻ ấy sẽ thành công vẻ vang trong
kiếp này nếu nó theo đuổi ngành kỹ thuật điện khí, hay cơ khí dùng sức
mạnh của hơi nước, và gồm một công việc có dùng đến sự tính toán bằng
phép đại số. Lời tiên tri đã tỏ ra hoàn toàn đúng. Đứa trẻ ấy bây giời
đã trở nên một viên kỹ sư điện khí và những điểm chính trong tánh tình
của y đều giống y như cuộc soi kiếp đã tiết lộ, tuy rằng y đã có một sự
thay đổi tánh tình nhờ ảnh hưỡng của hoàn cảnh gia đình trong kiếp hiện
tại.
Nếu nói rằng theo luật đồng
khí tương cầu, những người giống nhau sẽ rút lại gần nhau, thì trng
trường hợp này có lẽ đứa trẻ đã sinh ra trong một gia đình khoa học trí
thức, mà người cha có lẽ là một kỹ sư và người mẹ là một giáo sư toán
pháp ở một trườgn Đại Học chẳng hạn. Nhưng trái lại, y lại sinh ra trong
một gia đình gồm những người nuôi lý tưởng vị tha, không có óc hoạt
động thực tế. Người cha có óc tín ngưỡng tôn giáo và thích hoạt động xã
hội; người mẹ tuy rằng bề xã giao hơi kém, nhưng có khuynh hướng hoạt
động xã hội do ảnh hưởng của người chạ Người anh cả của đứa trẻ cũng là
một người có lý tưởng vị tha, và sự hoạt động chính của y trong đời là
giúp đỡ kẻ khác.
Xét về bề
ngoài, thì sự đầu thai của một đứa trẻ như thế trong gia đình kể trên
không thể nói là do nhân quả gây nên. Tuy nhiên, dường như có một nguyên
tắc sửa đổi, chấn chỉnh những điều thiên lệch để đem lại sự thăng bằng
trong tâm tính của một con người. Có thể rằng linh hồn đứa trẻ đã nhận
thấy sự khuyết điểm của mình và đã chọn lựa đầu thai vào một gia đình có
lý tưởng vị tha giúp đời, để cho y có cơ hội phát triển khía cạnh vị
tha bác ái trong tâm tính của y.
Trong
kiếp hiện tại, đứa trẻ luôn luôn có dịp tiếp xúc với những người mà mục
đích chính trong đời là phụng sự kẻ khác. Óc thực tế của y thường ảnh
hưởng đến những người khác trong gia đình một cách lành mạnh, trái lại,
lý tưởng vị tha của họ hằng ngày đều nhắc nhở cho y biết rằng ngoài ra
những giá trị thực tế và vật chất của cuộc đời, còn có những giá trị đạo
đức tâm linh. Tuy rằng kinh nghiệm đó không có đem đến một sự thay đổi
hoàn toàn trong cái giá trị căn bản của cuộc đời y là khoa học thực
dụng, nhưng nó đã ảnh hưởng đến con người của y bằng cách làm cho y trở
nên bớt ích kỷ khô khan và trở nên cởi mở hồn nhiên hơn về mặt giao tế
ngoài xã hội.
Như thế, việc chọn
lựa hoàn cảnh để đầu thai dường như đã đạt được mục đích sửa đổi tâm
tính và cuộc đới của y ít nhất là một phần nào. Những tài liệu hồ sơ
Cayce chứng minh một cách đầy đủ rằng những linh hồn sắp sửa tái sinh
trở lại cõi trần có ít nhiều tự do trong việc chọn lựa hoàn cảnh và gia
đình nào họ muốn đầu thai. Có vài bằng chứng chỉ rằng đối với những linh
hồn kém tiến hóa, thì sự tự do chọn lựa ấy có giới hạn, nhưng nói chung
thì sự lựa chọn cha mẹ để đầu thai dường như là một cái đặc quyền của
mỗi linh hồn. Người ta không dễ hiểu lý do tại sao một linh hồn lại cố
tình chịu đầu thai vào một nhà ổ chuột tôi tăm trong ngõ hẻm, với những
cha mẹ bần cùng khốn khó, một thể xác yếu đuối bệnh tật, và những hoàn
cảnh bất lợi khác. Xét qua bề ngoài thì dường như một sự chọn lựa như
thế có vẻ vô lý; nhưng nếu xét kỹ người ta thấy rằng điều ấy cũng có một
lý do sâu xa: Có khi một linh hồn cố ý chọn lựa một hoàn cảnh xấu xa
bất lợi để làm phương tiện lấy đà, hầu có nỗ lực cố gắng vượt qua mọi
chướng ngại và chiến thắng nghịch cảnh.
Có
một điều lạ là sự tự do chọn lựa ấy dường như là có một ảnh hưởng đến
tỷ lệ chết yểu của trẻ con. Nói chung thì khi sinh ra, một linh hồn có
thể thoáng thấy một phần nào cái viễn ảnh cuộc đời tương lai của mình ở
thế gian, khi y chọn lựa cha mẹ của y và hoàn cảnh để đầu thai. Nhưng vì
con người còn có quyền xử dụng ý chí, tự do nên luật Tự Nhiên khiến cho
y không thể nào biết trước tất cả mọi việc xảy ra trong tương lai. Sau
khi đã chọn lựa cha mẹ và sinh ra ở thế gian, một linh hồn có thể nhận
thấy rằng những người làm cha mẹ của y không ứng đáp lại đúng y như
nguyện vọng của y sở cầu. Bởi đó, cái mục đích của y nhắm khi đầu thai
vào làm con trong gia đình ấy đã hỏng, vì y đã gặp phải những hoàn cảnh
khác hẳn, nên linh hồn bèn không muốn sống nữa và tự ý rút lui.
Dưới
đây là một trường hợp một thiếu phụ mà cuộc soi kiếp cho biết rằng
trong một kiếp trước, nàng đã bị chết yểu. Kiếp này nàng đầu thai trở
lại một gia đình nọ do bởi sự hấp dẫn của người mẹ, nhưng sau khi sinh
ra nàng được ít lâu thì người cha bắt đầu say sưa chè chén, trở nên thô
lỗ cộc cằn và đánh đập vợ con. Thất vọng vì cảnh gia đình ấy, linh hồn
đứa trẻ bèn quyết định không sống nữa và sau một cơn đau ốm vặt thuộc về
bịnh trẻ con, nàng bèn từ giả cõi trần để trở về chốn cũ! Cuộc soi kiếp
cho biết rằng những sự "Rút lui" như thế là những hiện tượng rất thông
thường.
Nếu như vậy, thì sự chết yểu của trẻ
con, ít nhất trong vài trường hợp, có thể ví dụ như sư rút lui âm thầm
của một khán giả đi xem hát, bị thất vọng khi xem một màn đầu không được
hấp dẫn, bèn lẳng lặng đứng dậy bỏ ra về. Trong vài trường hợp như
trường hợp kể trên, một sự rút lui như thế có thể là do sự lỗi lầm của
những người làm cha mẹ; nhưng trong những trường hợp khác, nó chỉ là do
sự xét đoán sai lầm của linh hồn đầu thai.
Đôi
khi, sự chết yểu của một đứa con vừa sinh ra có thể được coi như một
kinh nghiệm đau khổ cần thiết cho những người làm cha mẹ. Đứa con chỉ
sinh ra có một lúc ngắn ngủi với một tinh thần hy sinh, để đem lại cho
một bài học đau khổ mà họ cần dùng, và nhờ đó họ sẽ có cơ hội tiến hóa
về tinh thần.
Một điểm lý thú
khác đã được xác nhận rõ ràng và nhiều lần trong những tập hồ sơ của
Cayce, là lúc thụ thai không phải là lúc linh hồn của đứa trẻ nhập vào
trong bụng người mẹ. Những cuộc soi kiếp thường khuyên các bà mẹ có mang
hãy giữ gìn tư tưởng trong thời kỳ thai nghén, vì những tư tưởng của
người mẹ có thể ảnh hưởng đến cái bào thai, và quyết định một phần nào
về loại linh hồn nào sẽ đầu thai vào làm cho con họ.
Dưới
đây là một đoạn vấn đáp trong tập hồ sơ Cayce về vấn đề này: Hỏi: "Tôi
phải có một thái độ tinh thần như thế nào trong những tháng sắp tới?"
Đáp:
"Điều ấy tùy nơi loại linh hồn mà bà mong muốn sẽ đầu thai làm con bà.
Nếu bà muốn con là nghệ sĩ, nhạc sĩ, bà hãy nghĩ đến âm nhạc, nghệ thuật
và mỹ lệ. Bà muốn có con giỏi về máy móc chăng? Như vậy, bà hãy nghĩ
đến cơ khí, hoặc làm lụng, hoạt động với các loại máy móc. Bà chớ tưởng
rằng điều ấy không có ảnh hưởng gì! Đây là một điều mà các bà mẹ nên
biết: Tâm trạng của một người mẹ trong khi thai nghén có ảnh hưởng rất
nhiều đến tánh tình của đứa trẻ sẽ đầu thai vào làm con các bà."
Theo
những tài liệu của ông Cayce thì linh hồn có thể nhập vào bào thai khi
còn nằm trong bụng mẹ trước khi sinh ra, hoặc ít lâu sau khi sinh ra,
hoặc ngay vừa lúc mới sinh ra. Có thể sau khi sinh ra đến hai mươi bốn
giờ đồng hồ, linh hồn mới nhập vào thể xác đứa trẻ; và trong vài trường
hợp, cũng có sự thay đổi vào giờ chót về linh hồn nào sẽ nhập ào. Điều
này mới nghe qua thì dường như không đúng với thuyết Luân Hồi nếu người
ta tin rằng một thể xác có thể sống mà không có linh hồn ngự trị Ở bên
trong; nhưng sự thật, điều ấy không phải là hoàn toàn vô lý. Những người
Thông Thiên Học gọi thể xác là cái khí cụ của linh hồn.
Chúng
ta hãy thử lấy thí dụ sau đây để giải thích vấn đề kể trên: Một chiếc
xe hơi đã được chế tạo xong, giàn xe đã lắp xong xuôi, bộ đồ đèn lửa đã
bắt cháy; chiếc xe đã bắt đầu quay máy và động cơ đã chạy, nhưng người
lái xe vẫn chưa xuất hiện và chưa vào ngồi trong xe. Dùng thí dụ đó để
so sánh thì ta có thể quan niệm rằng khi hài nhi vừa sinh ra, thể xác
của nó đã được cấu tạo đầy đủ, những bộ phận trong cơ thể đã hoạt động,
mặc dầu linh hồn của đứa trẻ vẫn chưa nhập vào thể xác.
Lẽ
tự nhiên, sự lý luận bằng cách so sánh không phải là luôn luôn vững
chắc và xác đáng, nêu chúng ta phải dùng cách lý luận đó là vì trong
những cuộc soi kiếp của ông Cayce, chúng ta luôn luôn gặp phải những
điều lạ lùng như đã kể trên; và bởi vì sự hiểu biết của chúng ta về sự
bí ẩn của đời người hãy còn thô thiển và thiếu sót để có thể giải thích
một cách xác đáng theo phương pháp khoa học. Có người đưa ra cho ông
Cayce câu hỏi này: "Cái gì làm cho thể xác đứa trẻ sống lại được, trước
khi linh hồn nhập vào?" Câu trả lời có vẻ bí hiểm, nếu không nói là mơ
màng và khó hiểu: "Đó là cái tinh thần. Vì tinh thần là nguồn gốc của
vật chất, và đó chính là Thượng Đế vậy."
Về
điểm này và nhiều điểm khác nữa, người ta cần có những cuộc sưu tầm
bằng khả năng khiếu Thần Nhãn. Sự sinh sản không phải là một sự tình cờ,
và việc một đứa trẻ lọt lòng mẹ để chào đời không phải là một điều giản
dị như người ta có thể tưởng. Về vấn đề này cũng như bao nhiêu vấn đề
khác trên địa hạt nhân sinh, những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã tỏ ra
vô cùng lý thú và hữu ích vì nó hé mở những chân trời mới lạ để dìu dắt
những cuộc sưu tầm khảo cứu của người đời nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét