Chương 11
Quả Báo Tâm Lý
Chúng
ta đã thấy bằng cách nào tánh kiêu căng một thói xấu trên địa hạt tinh
thần có thể gây nên quả báo cụ thể trên địa hạt vật chất dưới dạng những
bịnh tật khốn khó. Những tập hồ sơ Cayce cũng chứa đựng nhiều trường
hợp mà những tội lỗi trên địa hạt tinh thần gây nên quả báo thuộc về tâm
lý; trong số đó có hai trường hợp đáng kể về quả báo lạc loài cô đơn,
mà nguyên nhân là tội bất khoan dung.
Trường
hợp thứ nhất là của một vị nữ tu trong một tu viện Pháp hồi thời vua
Louis mười bốn. Vị nữ tu này rất nghiêm khắc, lạnh lùng và thiếu đức bao
dung đối với những sự lầm lạc yếu đuối của người đời, hiểu Thánh Kinh
một cách quá chặt chịa, gò bó từng chữ từng cầu, và khinh bỉ những người
nào vi phạm những lời răn dạy trong Thánh Kinh. Hậu quả của thái độ
khắc nghiệt đó biểu lộ trước hết trong kiếp này bằng một chứng bịnh đau
hạch, dây dưa không dứt, làm cho bịnh nhân bị hoại huyết quá nhiều trong
lúc có kinh nguyệt. Chứng bịnh này làm cho cô không thể đi học đều đặn,
mỗi tháng nằm liệt giường hết hai tuần lễ, làm cho cô trở nên nhút nhát,
thích sống cô đơn, và tránh xa các bạn bè đồng lứa tuổi. Những điều này
có ảnh hưởng đến cá tính của cô về mọi mặt.
Về
sau những chứng bịnh kể trên đã lần lần giảm bớt. Nhờ có một thân hình
đẹp đẽ, cân đối, cô làm nghề kiểu mẫu ở New York và lập gia đình. Tuy
nhiên, cuộc tình duyên của cô không có hạnh phúc. Vợ chồng không hợp ý
tâm đầu: Người chồng thì lạnh lùng và khắc khổ, còn cô thì lại khao khát
sự yêu đương. Trận Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, người chồng phải vượt
biển tùng chinh. Từ đó, cô bắt đầu sống một thời kỳ độc thân, làm cho cô
buồn không thể chịu nổi cảnh đơn chiếc, nên phải dọn vào ở trong một
trại nghỉ mát. Tại đây, cô bắt đầu uống rượu và sống một cuộc đời bê tha.
Lúc đầu cô cảm thấy rằng uống một hai ly rượu giúp cô thoát khỏi sự ám
ảnh nặng nề của cơn sầu khổ. Nhưng một khi đã bước vào con đường ấy rồi,
cô không thể ngưng lại được nữa; càng ngày càng uống rượu nhiều thêm. Có
khi cô uống luôn ngày đêm không dứt, trong ba tuần liên tiếp như vậy,
và ngủ với bất cứ người nào, lính thủy, lính tập hay phi công, tùy theo
lúc cao hứng. Khi cô say rượu thì mất cả mọi sự dè dặt trong cử chỉ, và
bất chấp cả áo quần. Cô đi tiểu tiện và đại tiện ngay ở giữa sân nhà chỉ
khoác một cái áo choàng để hở, và nếu người ta không ngăn cản thì cô cứ
điềm nhiên khỏa thân đi thẳng vào phòng khách lữ quán đang ở trọ. Sau
cùng, sức khỏe của cô bắt đầu suy sụp dưới ảnh hưởng chất men rượu nồng.
Hai bàn tay bắt đầu run đến một mực mà cô không thể cầm viết ký tên vào
những ngân phiếu để lãnh tiền của chồng gởi về. Trong những lúc tỉnh
táo và đầy đủ trí khôn, cô quyết định rời khỏi trại nghỉ mát trung tâm
quy tựu hằng nửa chục những căn cứ hải quân và đồn trại ở gần bên. Những
bức thư cuối cùng cho biết rằng nay cô làm thơ ký với ít nhiều trách
nhiệm; nhưng về sau cô vẫn tiếp tục chè chén bê tha, và sau cùng đã ly
dị chồng. Dường như sự trụy lạc của cô trước hết là do bởi thần kinh quá
căng thẳng, mà điều này lại phát sinh từ chứng bịnh đau hạch mà ra.
(Ông Cayce hay nhấn mạnh rằng các bộ phận hạch tủy trong thân người
thường là những phương tiện biểu lộ của luật quả báo). Chứng bịnh này
lại là cái hậu quả trực tiếp của những hành vi kết án khắc nghiệt của cô
đối với kẻ khác và sự thiếu lòng nhân từ của cô ở kiếp trước. Những sự
lầm lạc yếu đuối của kẻ khác, mà trước kia cô lên án một cách khắt khe,
nghiệt ngã, ngày nay đã trở nên những sự lầm lạc yếu đuối của chính
mình. Bằng cách trả quả báo như thế, cô mới hiểu được rằng sự lầm lạc
tội lỗi của người đời là đáng thương, và họ là những người mà ta phải
thông cảm và giúp đỡ thay vì lên án và chê bai. Cũng như những kẻ chế
nhạo, những người chỉ trích chê bai kẻ khác phải chịu nhận lãnh cái số
phận của những kẻ mà họ đã lên án.
Trường
hợp thứ nhì là của một người đàn bà có thói kiêu căng và thành kiến
trong hai kiếp trước. Trong một kiếp vào thời kỳ của đấng Christ tại
Palestine, cô là vợ của một vị giáo sĩ Do Thái. Với địa vị xã hội này,
cô đã tỏ ra khắc nghiệt và khinh bỉ những người thanh niên phóng đãng,
tự do, vô tôn giáo. Thời gian trôi qua cũng không làm phai mờ và giảm
bớt lòng kiêu căng và tự phụ của cô. Trong kiếp thứ nhì, cô tái sinh ở
Salem, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ, nhưng vẫn không chừa thói khắc
nghiệt và lên án kẻ khác, mà dường như cô càng trở nên khó khăn nghiệt
ngã hơn! Cuộc soi kiếp cho biết rằng: Linh hồn này đã gặp phải những
người rất khó tính trong kiếp hiện tại, những người khắc khe, soi mói và
sẵn sàng lên án kẻ khác. Trước kia linh hồn này đã gây nhiều đau khổ
cho kẻ khác. Khi người ta nhận chìm một vài người xuống nước trong vụ xử
án những người phù thủy, cô chứng kiến việc ấy và vỗ tay hoan nghinh.
Khi những người khác bị đánh bằng roi vọt, cô cũng biểu đồng tình. Bởi
vậy, linh hồn này thường nhớ lại những sự hành phạt đau khổ của những
thời kỳ đó trong những khi cô bị loạn trí. Hiện thời cô bị chứng nội
thương trong mạch máu và tủy xương sống, do bởi thiếu sự điều hành giữa
bộ thần kinh giao cảm và bộ Óc, chứng bịnh này là cho cô có những thời
kỳ "Phản ứng thể xác." Sự phản ứng thể xác này là một chứng bịnh thần
kinh mà đương sự bị đau từ năm 39 tuổi, và những cơn khủng hoảng thường
tái phát trải qua 14 năm kế đó. Cô không có gia đình; nhà ở khu sang
trọng tại New York, và sự kiện rằng cô không có làm nghề nghiệp gì dường
như chứng tỏ rằng cô có phương tiện và tài sản. Người ta có thể cho
rằng sự ở không, vô sự có thể là một yếu tố quan trọng gây nên những cơn
khủng hoảng tinh thần.
Nhưng đó chỉ là một
nguyên nhân tạm bợ bên ngoài, có tính cách nhất thời mà thôi, chứ không
phải nguyên nhân sâu xa Trong tận thâm tâm của người đàn bà này, có một
lòng khắt khe nghiệt ngã đối với nhân loại, một sự thản nhiên lạnh lùng
trước những điều nguyện vọng và đau khổ của người đời. Sự khắc nghiệt,
bất khoan dung của cô đã làm cho nhiều người thất vọng đau khổ trong
những kiếp trước: Bởi vậy, thật là công bình mà thấy cô trải qua kinh
nghiệm thất vọng đau đớn trong kiếp này.
Người
ta có thể tự hỏi rằng tại sao người đàn bà này không bị trả quả báo về
sự khắc nghiệt của cô hồi thời ở xứ Palestine, trong kiếp đầu thai ở
Salem. Câu hỏi này có thể giải đáp bằng hai cách khác nhau. Trước hết,
kiếp đầu thai ở Salem có lẽ có một mục đích khác hơn là sửa chữa tánh
khắc nghiệt của cộ Bởi đó, tánh khó khăn này đã bành trướng thêm trong
khi cô theo đuổi một công việc quan trọng khác ở kiếp nói trên. Lẽ thứ
hai là thái độ khắc nghiệt của cô ở Palestine có
thể chưa rõ rệt lắm, và chưa biểu lộ bằng những hành động gây tổn thương
cho kẻ khác. Đó chỉ là tánh bất khoan dung lúc mới đầu, chưa đủ mạnh để
có thể gây nên một nghiệp quả lớn lao. Ngoài ra, mọi việc xảy ra trong
đời cô là một sự thử thách. Trong kiếp sống ở Salem, cô có thể là một
người khoan dung hay khắc nghiệt, tùy ý cô chọn lựa con đường tâm tính
của mình. Nhưng cô đã thất bại trước sự thử thách đó; cô càng tăng cường
thêm tánh khắc nghiệt đã có ở Palestine thay vì sửa chữa lại, và bởi đó
cô tạo nên quả báo mà cô phải trả trong kiếp này.
Trong
những thói xấu đồng một loại với tánh bất khoan dung và nghiệt ngã, có
tánh hay chỉ trích. Trường hợp sau đây là một thí dụ lý thú về quả báo
gây nên bởi tánh hay chỉ trích. Đó là một người thanh niên 27 tuổi, làm
thiếu úy trong quân đội, có tánh tự ti mặc cảm, và luôn luôn nghĩ rằng
mình bất lực, không làm nên trò trống gì. Chúng tôi không được biết
những lý do nào làm trở ngại sự phát triển cá tính của y thuở thiếu
thời. Có thể rằng y đã có một người cha hay người mẹ có thói
hay công kích một cách vô lý; hoặc y có một thân hình dị dạng, làm cho
bè bạn trong lớp chế diễu nhạo báng. Chúng tôi đưa ra những sự phỏng
đoán trên đây là vì căn cứ vào cái quả báo hiện thời của đương sự, vì
trong cuộc soi kiếp, ông Cayce nói: "Ai giống nào sẽ gặt giống nấy. Vì
anh đã chỉ trích kẻ khác, nên ngày nay anh phải bị chỉ trích lại."
Cuộc
soi kiếp cho biết rằng người thanh niên ấy trong kiếp trước là một nhà
phê bình nghệ thuật, thường có thói quen chỉ trích một cách gắt gao, cay
đắng, nghiệt ngã, mọi nghệ phẩm mà y không vừa lòng. Vì trong quá khứ y
đã gieo sự ngờ vực trong lòng kẻ khác, làm cho họ mất tin tưởng về khả
năng của chính mình, thì ngày nay đến lượt y phải bị cái quả báo tương
đương là thói tự ti mặc cảm.
Chúng
ta thấy ở đây một khía cạnh mới của Luật Nhân Quả vô cùng phức tạp, một
khía cạnh rất quan trọng về mặt tinh thần, đáng để cho ta suy gẫm. Tự
nhiên những nhà phê bình chuyên môn chỉ gồm một số rất ít, nhưng
trên Trái Đất hiện nay người ta đếm có gần hai tỷ rưỡi những nhà phê
bình tài tử, tay ngang, nghĩa là không chuyên nghiệp. Có lẽ không một
nghề nghiệp nào trên thế gian có nhiều tay hành nghề tài tử như nghề
này, họ phê bình và chỉ trích thiên hạ một cách say mê thỏa thích, kể từ
ngày họ mới tập nói cho đến ngày mà Thần Chết khóa miệng họ lại dưới
nấm mồ! Nghề này không cần bỏ vốn, và dễ làm hơn ăn cơm! Ngoài ra, nó
còn khác hẳn với mọi thứ tiêu khiển của người đời, đó là một trò chơi mà
người ta có thể thực hành ở ngoài đường hoặc trong nhà, suốt cả năm này
qua tháng nọ, mà chỉ cần dùng một khí cụ duy nhất, là một cặp lưỡi sắc
bén! Chỉ cần có hai hay ba người tụ họp lại, là cái trò chơi phê bình,
chỉ trích này bắt đầu!
Tuy
nhiên, mặc dầu sự chỉ trích là môt trò tiêu khiển không tốn kém, nhưng
nó có thể bắt buộc ta trả một cái giá rất đắt một ngày về sau. Nguồn tài
liệu (đó là danh từ mà ông Cayce dùng để ám chỉ cái quyền năng của ông)
thấy rõ sự hành động của luật Nhân Quả trải qua giòng thời gian vô tận,
thường đưa ra những lời cảnh cáo nghiêm khắc và rõ ràng cho những người
nào có cái tật này. Thí dụ sau đây, trong hằng trăm những thí dụ khác,
là một bằng chứng hiển nhiên để cho ta dùng làm tài liệu suy gẫm:
"Chúng
tôi thấy linh hồn này thường tỏ ra quá nghiêm khắc trong sự chỉ trích
kẻ đồng loại. Phải tốp bớt lại, vì những gì mà ta chỉ trích ở kẻ khác,
sẽ đến với ta dưới một hình thức nào đó."
Đó
là một lời tuyên bố rõ ràng về luật quả báo, theo đó một nguyên nhân
gây ra trên địa hạt tâm lý sẽ mang đến một hậu quả tâm lý tương đương.
Điều này nhắc nhở cho chúng ta nhớ lại những lời răn dạy trong Kinh
Thánh Gia Tộ Đức Jesus có dạy rằng: "Ta nói cho các ngươi biết, mỗi lời
nói vô ích mà mỗi người thốt ra, họ sẽ phải trả lời trong ngày Phán Xét
cuối cùng," và kế đó là những lời răn: "Không phải những gì chui vào lỗ
miệng của một người, nó làm cho y bị Ô nhiễm, nhơ bợn, mà là những gì từ
trong lỗ miệng của y chui ra!" "Ngươi chớ lên án nếu ngươi không muốn
bị kẻ khác lên án. Vì ngươi lên án kẻ khác như thế nào, thì đến phiên
ngươi sẽ bị lên án cũng y như thế đó!"
Lời răn
trên đây, đối chiếu với luật quả báo mà chúng ta phải thấy, có một ý
nghĩa hùng hồn, mạnh mẽ và hợp lý trên phương diện thực tế mà người ta
chớ khá coi thường. Về những trường hợp kể trên, chúng ta nên nhớ rằng
chính cái nguyên động lực, và mục đích của mỗi hành động mới là cái sức
chuyển vận luật Nhân Quả. Không phải nghề phê bình văn nghệ nó làm cho
người thanh niên kia bị sa đọa trong kiếp trước, mà chính là cái thái độ
bên trong của y và sự ngờ vực mà y đã gieo trong lòng kể khác về tài
năng của họ, trong khi y hành nghề một cách cẩu thả. Người ta thấy một
tình trạng tương tự khi người lính La Mã ngược đãi những tín đồ đạo Gia
Tô, như đã kể ở Phần 5. Nghiệp của y gây ra không phải là vì y thừa hành
chức vụ của người lính gác, mà do bởi hành động tàn ác của y đối với
những người không sức tự vệ đặt dưới quyền sinh sát của ỵ Ở đây cũng như
mọi trường hợp, chính cái tinh thần bên trong mỗi hành động mới là cái
nguyên động lực tạo nên nghiệp quả.
Trước
đây, chúng ta thấy rằng những khuynh hướng độc tài chuyên chế nguyên
nhân là do những kinh nghiệm chỉ huy ở kiếp trước. Khả năng lãnh đạo là
một đức tính tốt, nhưng nó thường biến chứng thành thói chuyên chế độc
tài. Trong lịch sử, người ta thấy những người có chức vụ cao, nắm quyền
thế trong tay, thường lạm dụng quyền hành để thỏa mãn lòng tham vọng
riêng của mình. Những trường hợp lạm dụng quyền thế một cách trắng trợn
và những quả báo gây ra do những hành động đó, đều được thuật lại rất
nhiều trong những tập hồ sơ Caycẹ Thí dụ, đây là trường hợp của một
người có quyền thế trong thời kỳ các vụ án phù thủy ở Salem. Ylà một
trong những viên chức có trách nhiệm trừng trị khủng bố những người đàn
bà bị tố giác là hành nghề phù thủy. Tuy nhiên, trong khi thừa hành chức
vụ đàn áp khủng bố những người theo tà đạo để bảo vệ thuần phong mỹ tục
và bảo vệ tín ngưỡng Gia Tô, con người mô phạm và đạo đức giả
này lại lạm dụng quyền hành của mình để thỏa mãn điều sắc dục: Những
người phụ nữ bị giam cầm đều bị cưỡng bách phải thất tiết với y! Những
tập hồ sơ cho biết nhà đạo đức giả ấy đã đầu thai trở lại kiếp này. Hiện
nay y là một thiếu niên 11 tuổi, con của một người đàn bà nghèo khổ, bị
chồng bỏ rơi. Ythường bị chứng động kinh rất dữ dội; trong lúc soi kiếp cho
y, y đã liệt bại hết nửa thân mình bên trái, và câm không nói được nữa.
Ykhông thể tự mình mặc hay cởi áo quần, hoặc ăn uống hay đi lại, tiểu
tiện mà không có người dìu dắt. Hai vai của y đã còng, và sau một cơn
động kinh kéo dài suốt nhiều ngày, trong khi đó ông bị chứng phong giựt,
mỗi ngày cách khoảng độ nửa giờ, y không thể nào giữ vững đầu trên cổ
được nữa, và không thể ngồi dậy được nếu không có người nâng đỡ.
Theo
ông Cayce, bịnh động kinh thường là quả báo của sự hoang dâm vô độ. Dầu
sao, sự lạm dụng quyền hành trong trường hợp này là một yếu tố quan
trọng. Sự nghèo khổ và địa vị thấp kém của người mẹ y dường như là một
sự đảo lộn địa vị giàu sang quyền thế của y trong kiếp trước. Chứng động
kinh là cái hậu quả của sự cưỡng hiếp, dâm dục khi y lạm dụng quyền
hành để thỏa mãn thú tính.
Trường
hợp sau đây là một thí dụ lạm dụng quyền thế trong thời kỳ khủng bố đạo
Gia Tô ở La Mã. Có một người tên Romus, làm quân nhân trong đạo binh La
Mã. Ngoài ra số tiền lương tháng, với cấp bậc khá cao của y, y đã dùng
thế lực để kiếm những món tiền khổng lồ. Cuộc soi kiếp không nói rõ y
dùng phương pháp nào, không biết là y biển thủ công quỹ hay dọa nạt để
làm tiền; nhưng y đã dùng phương tiện bất chính để mưu lợi, thâu được
rất nhiều của cải vật chất, nhưng lại mất mát nhiều về phương diện tâm
linh. Trong kiếp hiện tại, Romus bị nhiều đau khổ: Sự nghèo đói, lầm
than, không nhà cửa, luôn luôn theo dõi y suốt đời. Nghề thợ may của y
không đủ sinh lợi để nuôi một vợ và năm con. Chỉ nhờ sự giúp đỡ của cha
mẹ y mà vợ chồng và gia đình y mới có thể sinh nhai một cách tạm bợ và
bấp bênh ở một khu phố nghèo nàn tại Luân Đôn. Trong trường hợp này cũng
vậy, kẻ lạm dụng quyền hành đã phải chịu những quả báo tương đương với
hành động quả báo của y gây ra. Tình hình tài chánh tuyệt vọng của y
phản ảnh những nỗi lầm than khốn khổ mà y gây ra cho kẻ khác trong kiếp
trước.
Dưới đây là một trường
hợp khác về sự lạm dụng quyền hành, cũng đáng được cho chúng ta ghi nhớ:
Một người đàn bà nọ thuộc giai cấp trưởng giả hồi thời Cách Mạng Pháp,
đã tham gia cuộc nổi loạn chống giai cấp quý tộc. Với tấm lòng thành
thật tranh đấu cho một lý tưởng, bà đã thực hiện một sự tiến bộ lớn về
đường tâm linh. Nhưng sau cuộc Cách Mạng, khi dịp may đưa đến bà đạt tới
một địa vị quan trọng trong chánh phủ, bèn trở nên độc tài và lạm dụng
quyền thế chẳng thua gì những người mà bà đã tranh đấu chống lại trước
kia. Cuộc soi kiếp nói: "Hậu quả đưa đến, là trong kiếp hiện tại, linh
hồn này phải chịu dưới quyền sai khiến của kẻ khác, để đè nén bớt những
khuynh hướng độc tài và hách dịch của y trước kiạ" Hiện thời, người đàn
bà này sống một cuộc đời rất khó khăn, lúc soi kiếp, bà đã 40 tuổi, góa
chồng đã mười năm và có một đứa con gái nhỏ. Bà phải chiến đấu với
nghịch cảnh để tư mưu sinh và nuôi con. Bà đã tìm được việc làm trong
một cơ sở cứu trợ nạn nhân thất nghiệp của chánh phủ trong một thời gian
nhưng tình trạng của bà vẫn bấp bênh. Sự cô đơn và thiếu nguồn vui sống
đã làm cho bà tuyệt vọng và chán nản. Tình trạng này không phải là do
sự ngẫu nhiên tình cờ: đó là cái phản ảnh đúng đắn của những sự đè nén
áp bức mà bà đã gây ra cho kẻ khác, khi lạm dụng quyền hành trong taỵ
Xét qua bề ngoài, thì bà là nạn nhân của một tình trạng kinh tế khủng
hoảng và một số mạng hẩm hiu; nhưng xét về luật quả báo, thì bà chỉ là
nạn nhân của chính mình.
Những
trường hợp kể trên có thể giúp cho ta một cái tiêu chuẩn quan trọng để
tìm hiểu những nỗi khó khăn trắc trở của người đời cùng những nỗi khổ
đau của họ, và tìm ra những nguyên nhân xa gần, căn cứ vào quả báo trong
hiện tại. Khi nhà hiền triết Eschyle cách đây hai ngàn năm ở Hy Lạp nói
rằng: "Số mạng, tức là hạnh kiểm" ông ta đã thốt ra một câu châm ngôn
mà nếu ta nói ngược lại cũng vẫn đúng. Vì những trường hợp đã xét qua
như trên dường như chỉ rằng số mạng con người ngày nay, tức là phản ảnh
cái hạnh kiểm của y trong quá khứ. Đến đây, một vấn đề quan trọng được
nêu ra, một vấn đề mà bất cứ người nào học hỏi nghiên cứu và suy gẫm
chính chắn về thuyết Luân Hồi, cũng không khỏi nêu ra để tự vấn lấy
mình. Nếu như sự nghèo khổ là những quả báo cần thiết để giáo dục sửa
đổi những kẻ hung dữ, độc ác, bất công theo định luật Nhân Quả, thì tại
sao người ta cần phải cố gắng hoạt động trong những công việc cứu tế xã
hội để làm gì. Phải chăng những cố gắng của ta để trợ giúp kẻ khác bần
hàn khốn khó, sẽ làm ngăn trở sự hành động của luật Nhân Quả?
Chúng
ta nên hiểu rằng thuyết Luân Hồi không phải chủ trương một thái độ nhắm
mắt buông xuôi đối với những nhu cầu cấp bách của xã hội. Những linh
hồn cần phải học bài học nghèo nàn khốn khó, sẽ sinh ra trong một thời
kỳ lịch sử và trong một hoàn cảnh địa phương mà sự bất công của xã hội
có thể tạo nên cái quả báo nghèo khổ khốn cùng cần thiết cho bài học
kinh nghiệm của họ.
Nhưng đồng
thời, những người nào không cố gắng làm việc để cải thiện đời sống của
kẻ đồng loại, tức là họ phạm vào tội "Thờ ơ, chểnh mảng" (omission); còn
những kẻ lợi dụng và khai thác kẻ đồng loại vì mục đích ích kỷ, là
những kẻ tích cực phạm tội (commision); hai thứ tội lỗi này, có ngày họ
sẽ phải trả quả.
Thuyết Luân
Hồi, nếu hiểu một cách đúng đắn, sẽ không thể dùng làm một thuyết để bào
chữa cho những hành vi của kẻ bất lương. Giáo lý mà thuyết ấy cho ta
trước hết thuộc về địa hạt tâm lý, bởi vì nó nhắm vào mục đích cải tiến
linh hồn người cho tới mức Toàn Thiện. Nhưng giáo lý ấy cũng nằm trong
địa hạt xã hội, bởi vì mục đích tối cao của nó là tình thương; và tình
thương chính là cái mãnh lực mầu nhiệm làm tiêu tan mọi điều nghiệp
chướng và quả báo xấu xa, theo định luật Nhân Quả cai quản sự tiến hóa
của con người.
Những Đạo gia quả
quyết rằng hành động của con người không thể nào sửa đổi được định luật
của Vũ Trụ. Định luật Nhân Quả Công Bằng cũng ví như nước, luôn luôn
giữ mực bằng phẳng, quân bình. Dầu cho con người gặp hoàn cảnh nào và
dưới thời kỳ nào, điều đó không quan hệ, đó chỉ là cái khung cảnh bên
ngoài làm nền tảng và bối cảnh cho linh hồn đầu thai để học hỏi kinh
nghiệm ở cõi trần. Đối với một linh hồn đã chọn lựa nhũng hoàn cảnh đó,
thì luôn luôn có những phương tiện thích nghi để giúp cho họ sửa chữa
những khuyết điểm và lầm lạc bên trong của họ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét