Cuộc đời mỗi con người là một ẩn số. Muốn
hiểu hơn về những bí ẩn đó, mời bạn đọc cuốn sách này. Cuốn sách viết
về những bí ẩn của cuộc đời mỗi con người.
Đọc để hiểu về bản thân. Đọc để hiểu về cuộc đời. Có hiểu bản thân, có hiểu những quy luật và cung cách ứng xử của con người với nhau thì nhà doanh nghiệp mới có thể xếp sắp cuộc sống của mình, biết điều gì là quan trọng, biết điều gì thực sự tạo nên hạnh phúc để rồi theo đuổi nó. Hạnh phúc đối với nhà doanh nghiệp không phải là tiền, hạnh phúc với họ là được vượt qua những giới hạn của bản thân, thực hiện những công việc vĩ đại, làm cho cuộc sống nhân loại ngày một tốt đẹp hơn. Hãy đọc để bách chiến bách thắng, phát triển sự nghiệp vẻ vang.
Cuốn sách đặc biệt quan trọng trong việc điều hành cá nhân và quản lý nhân sự.
Những bí ẩn của cuộc đời
Dale Carnegie
Dịch giả: Nguyễn Hữu Kiệt
Chương 1
Một Triển Vọng Đáng Mừng
Một nhà Hiền Triết đã tóm tắt tất cả lịch sử của nhân loại với những lời nầy: "Con người sinh ra, chịu đau khổ và chết."
Nói
về sự đau khổ của thế gian, người ta đã từng nghe nói về một chuyện cổ
xưa và đầy ý nghĩa. Đó là truyện tích thái tử Sĩ Đạt Ta, mà về sau người
ta được biết dưới danh hiệu đức Phật, tức là bậc Toàn Giác. Phụ Vương
của Sĩ Đạt Ta là một vị vua rất giàu sang và có thế lực lớn ở miền Bắc
Ấn Độ. Người quyết định truyền ngôi cho Thái Tử, và muốn giữ Thái Tử ở
trong cung, không muốn cho Thái Tử nhìn thấy cảnh lầm than, đau khổ của
người đời. Thái Tử sống từ nhỏ trong cung cấm, và đến lúc trưởng thành,
vua cha mới cưới cho Thái Tử một vị Công Chúa nhan sắc đẹp tuyệt trần.
Từ nhỏ đến lớn, Thái Tử không hề bước chân ra khỏi bốn vách thành bao
bọc chung quanh Hoàng cung một lần nào. Đến lúc Thái Tử sinh hạ được một
hoàng nam, người mới thấy nhàm chán cảnh cung điện và tọc mạch muốn
biết có những gì ở cõi thế gian bên ngoài. Người mới tìm cách đánh lừa
những tên lính gác cửa thành, và lần đầu tiên người mới nhìn thấy cảnh
thành phố tấp nập, dân cư đông đão và cảnh đời thực tế bên ngoài.
Trong
chuyến ngao du đó, người nhìn thấy ba cảnh tượng làm cho người chú ý:
đó là cảnh tượng một người gia, một người bịnh và một xác chết. Thái tử
vô cùng xúc động, bèn hỏi tên đánh xe đi theo Ngài, tại sao lại có những
cảnh đau khổ như thế? Khi được biết rằng đó là những điều thường vẫn
xảy ra hằng ngày và đó là cái số phận chung cho cả mọi người, không ai
tránh khỏi, Thái Tử lấy làm buồn bực vô cùng đên nỗi Ngài không còn muốn
sống cuộc đời sung sướng xa hoa như trước nữa. Ngài trở về cung, bèn từ
giã tất cả mọi gia tài sản nghiệp, gia đình vợ con, và quyết
định
xuất gai tầm Đạo để cứu vớt nhân loại và chúng sinh khỏi sự lầm than
đau khổ. Sau nhiều năm khổ công tu luyện và tham thiền quán tưởng, Ngài
bèn thoát nhiên đại ngộ, trở nên một bậc Toàn Thông, đắc Vô thượng Đạo,
chánh đẳng chánh giác, tức là đắc Đạo thành Phật vậy. Khi đó Ngài mới
đem truyền dạy Đạo mầu thoát khổ cho thế gian.
Chúng
ta là những người trần gian phàm tục, không mấy ai có thể làm giống như
Phật Thích Ca, nhất thời dứt bỏ tất cả giàu sang, quyền thế, danh vọng,
tình yêu và hạnh phúc gia đình để theo đuổi một mục đích mơ màng viễn
vông như là việc đi tìm Chân Lý, và tìm hiểu bí quyết của cuộc Đời! Tuy
nhiên, mỗi người trong chúng ta đều có kinh nghiệm về sự đau khổ ít nhất
một vài lần trong đời mình và đã có lúc phải tự hỏi: Tại sao con người
bị đau khổ? Và họ có thể làm gì để thoát khổ?
Những
nhà văn có óc không tưởng đã phác họa một thời kỳ trong tương lai mà
trong bốn điều khổ của đức Phật nêu ra, thì hai điều sẽ không còn nữa,
đó là: Bệnh và lão. Nhưng mặc dầu khoa học hiện đại đã có bao nhiêu
những phát minh mới mẻ tân kỳ, người ta vẫn chưa có triển vọng tìm ra
phương pháp giải quyết vấn đề mà con người vẫn coi như là một kẻ thù lớn
nhất, đó là Sự Chết! Trong khi chờ đợi, và trong khi mà một sự cải tạo
thế giới trên một bình diện hợp lý hơn vẫn chưa đem đến cho nhân loại
sức khỏe, an ninh, và hạnh phúc, thì chúng ta còn phải đương đầu với
muôn ngàn sự bấp bênh, nguy cơ và đau khổ nó hăm dọa nền hạnh phúc và sự
bằng an trong tâm hồn chúng ta!
Những tai họa
thiên nhiên như hỏa hoạn, ngập lụt, bệnh tật truyền nhiễm, động đất,
chiến tranh, ... đó chỉ là mới kể một vài sự hăm dọa từ bên ngoài. Còn
nói về đời sống bên trong, tức là về phần nội tâm thì con người có bao
nhiêu những sự yếu đuối, bất toàn, như sự ích kỷ, ganh ghét, tham lam,
thù hận, si mê ... Nó là bao nhiêu những nguồn gốc sinh ra sự đau khổ
cho mọi người và cho những kẻ đồng loại ở chung quanh.
Trong
những giờ tươi sáng, khi chúng ta cảm thấy trong lòng vui vẻ hân hoan
vì tiếng nhạc réo rắt dụ dương, hay khi nhìn thấy cảnh tượng tưng bừng
rực rỡ của lúc bình minh, chúng ta cảm thấy rằng trong vũ trụ hẳn có sự
hòa vui và có ẩn dấu một ý nghĩa sâu xa thâm trầm. Tuy nhiên, khi chúng
ta quay trở về cõi đời thực tế với những sự va chạm phũ phàng, những
thất vọng não nề cay đắng, chúng ta không khỏi nêu ra những câu hỏi tối
hậu: Yù nghĩa và mục đích của cuộc đời là gì? Tôi là ai? Tại sao tôi lại
sinh ra ở đây? Tôi sẽ đi về đâu? Tại sao tôi phải chịu đau khổ? Có
những mối liên quan gì giữa tôi với người khác ở chung quanh? Và giữa
con người với cái sức mạnh vô hình huyền bí trong cõi thiên nhiên nó bao
phủ cuộc đời chúng ta, có một mối liên hệ như thế nào?
Những
câu hỏi căn bản đó, nhân loại đã từng nêu ra từ thuở bao giờ trong
những thời đại quá khứ xa xăm. Ngày nào người ta vẫn chưa tìm ra được
câu giải đáp thì tất cả những giải pháp tạm thời để làm dịu bớt sư đau
khổ, dầu là những phương tiện vật chất hay tinh thần, cũng đều là vô
nghĩa và không có ích lợi gì. Ngày nào mà vấn đề đau khổ của nhân loại
vẫn chưa được giải quyết, thì người ta vẫn chưa giải quyết được gì cả.
Ngày nào mà trên thế giới còn có một sinh vật nhỏ mọn tầm thường nhất
đang quằn quại trong đau khổ mà người ta chưa giải thích nổi lý do, thì
người ta cũng vẫn chưa giải thích được điều gì cả, và quan niệm triết lý
của chúng ta về cuộc đời vẫn hãy còn là thiếu sót và bất toàn.
Từ
những thời đại cổ xưa nhất, loài người đã từng nêu ra những câu hỏi đó.
Càng ngẫm nghĩ, họ càng cảm thấy rằng những sự tranh đấu vất vả đau khổ
của con người không phải là vô ích và vô nghĩa lý như người ta tưởng,
mà nó có một ý nghĩa nhờ bởi một sự liên quan lớn lao nối liền con người
và vũ trụ. Hoặc họ đã cảm thấy có sự hiện diện vô hìn của những đấng
Thần Minh trong khu rừng vắng hoặc trên đồi cao và biết rằng mỗi sinh
vật, từ con người đến loài cầm thú, đều có một linh hồn: Rằng linh hồn
đó chỉ là tạm thời sống và chịu đau khổ một lúc ở cõi hạ giới, và sau
khi chết sẽ tìm thấy một đời sống an nhàn và hạnh phúc hơn. Hoặc họ nghĩ
rằng ngoài ra cõi trần gian đau khổ nầy, mà loài người sống trong sự
hỗn tạp pha lẫn cả điều lành và điều dữ, điều thiện và điều ác, còn có
một cõi giới xa xăm nào đó, là nơi thưởng phạt những hành động của họ ở
thế gian. Những điều tin tưởng và giải thích như trên đã từng được nêu
ra kể đến hằng nghìn, có những điều hãy còn giản dị thô sơ, có những
điều tế nhị hơn, cũng có những điều hợp lý. Và vì bởi một vài điều giải
thích đó có vẻ hợp lý mà trên thế gian con người vẫn tiếp tục sống và
đương đầu với những nỗi khó khăn của họ một cách can đảm.
Có
người tin tưởng ở đức Mahomet, có người tin tưởng ở đức Phật, hoặc Chúa
Jesus, hay đức Krishna. Có hằng muôn người tin rằng đời người có thể
giải thích bằng một lý do duy nhất, đó là sự sống còn. Những người khác
không cần tìm biết lý do gì cả, mà chỉ tận hưởng sự vui sướng khoái lạc
trong hiện tại.
Đối với những
người sinh trưởng trong nền giáo dục và tín ngưỡng đạo Gia Tô, thì sự
giải thích về đời người và những sự đau khổ của cuộc đời là nhứ thế này:
Con người có một linh hồn và linh hồn vốn bất diệt; sự đau khổ là một
thử thách đưa đến cho chúng ta, Thiên Đàng hay Địa Ngục là những điều
tưởng phạt tùy theo cách hành động và cư xử của chúng ta trên thế gian.
Những người đã từng chấp nhận sự giải thích đó không hề tự hào rằng họ
có đủ bằng chứng; đó là sự giải thích mà họ được hấp thụ của cha mẹ và
của giáo sĩ, chính những vị này cũng đã hấp thụ của những bậc phụ huynh
và các giáo sĩ của họ, và cứ như thế đi ngược thời gian cho đến khi
người ta tìm thấy uy quyền của một quyển sách gọi là bộ Thánh Kinh
(Bible), và của một người tên Jesus.
Hầu
hết mọi người đều đồng ý: Bộ sách này thật là hay tuyệt diệu, và đức
Jesus, dầu rằng là một người hay là Con của Chúa Trời, vốn là một nhân
vật phi thường. Tuy nhiên, kể từ thời Phục Hưng (Renaissance) cho đến
nay, người Tây phương càng ngày càng trở nên hoài nghi đối với những tín
điều căn cứ trên uy quyền của một người: Bất cứ tín điều nào mà không
thể chứng minh được qua cái lò thí nghiệm khoa học đều phải gặp một sự
hoài nghi mỗi lúc càng tăng thêm.
Nhà
thiên văn học Ptolémée nói rằng mặt Trời xoay chung quanh Trái Đất; và
đó là điều mà Hội Thánh Gia Tô đã chấp nhận và truyền dạy. Tuy nhiên,
nhà Thiên văn Copernic đã phát minh ra những khí cụ thiên văn học để
chứng minh rằng trái lại, chính Trái Đất xoay chung quanh mặt Trời.
Triết gai Aristote nói rằng nếu người ta làm rơi cùng một lượt hai vật
có trọng lượng khác nhau từ chỗ cao, vật nặng hơn sẽ rơi xuống đất trước
tiên, và Hội Thánh đã hoàn toàn chấp nhận nền triết học cùng sự phát
minh khoa học của Aristote. Tuy thế, với một cuộc thí nghiệm giản dị từ
trên đài nghiêng ở thành phố Pise, Galiée đã chứng minh rằng hai vật
cùng đồng một dung tích như nhau, nhưng trọng lượng khác nhau, lại rơi
xuống đất cùng một lúc.
Trong bộ
Thánh Kinh có nhiều đoạn cho rằng Trái Đất vốn bằng phẳng; tuy nhiên
Christophe Colomb và Magellan cùng những nhà thám hiểm khác nữa của thế
kỷ mười lăm đã làm đảo lộn giả thuyêt trên đây bằng những chuyến du hành
trên mặt biển, khởi hành từ phương Tây để đi về phương Đông. Những sự
chứng minh trên đây cùng với việc chứng minh khác nữa đã lần lần chỉ cho
người thời xưa không phải là hoàn toàn đúng. Do đó nảy sinh ra quan
niệm khoa học và óc hoài nghi của người thời nay.
Trong
sự tranh đấu để sống còn, con người không thể tránh khỏi sự đau khổ. Sự
đau khổ này, dường như người ta không tìm ra lý do nào khác hơn là nó
không có mục đích gì cả. Sự chết chỉ là một sự tan rã của những phân tử
hóa học vật chất, ngoài ra không còn gì nữa.
Như
vậy, người ta đã thay thế uy quyền của bộ Thánh Kinh hay của đức Giáo
Chủ bằng uy quyền của năm giác quan! Với những ống kính hiển vi, viễn
vọng kính, quang tuyến X, máy radar và những phát minh tối tân khác,
khoa học đã nới rộng tầm hoạt động của ngũ quan chúng ta. Sự nhận xét
bằng ngũ quan, tức thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác, xúc giác,
là nền tảng của mọi lý luận khoa học.
Tuy
nhiên, trải qua vài chục năm nay, người ta đã trở nên phức tạp hơn và
hoài nghi hơn đối với những điều họ hiểu biết hoặc tưởng rằng mình đã
hiểu biết. Những khí cụ khoa học mà người ta đã phát minh ra, đã chỉ cho
họ thấy một cách mỉa mai rằng những giác quan của con người thật là
thiếu sos1st, bất toàn là dường nào và không thể giúp chúng ta hiểu biết
vũ trụ một cách thật sự. Những luồng sóng Hertziennes, chất phóng
quang, nguyên tử lực, đó là chỉ mới kể có một vài hiện tượng khoa học
của thời buổi hiện đại, đã chứng minh một cách rõ ràng rằng chung quanh
chúng ta có những luồng âm ba rung động và những mãnh lực vô hình; và
những vi tử nhỏ bé nhất của cõi vật chất đều là những kho chứa đựng tinh
lực, hàm xúc tiềm tàng một sức mạnh kinh khủng mà con người không thể
tưởng tượng. Chúng ta biết rằng những giác quan như tai, mắt ... Mà
chúng ta dùng để tiếp xúc với ngoại giới, cũng ví như những cửa sổ nhỏ
hẹp của cái tòa nhà bé nhỏ là xác thân của chúng ta. Sự nhậy cảm của con
mắt chúng ta đối với ánh sáng giúp chúng ta tiếp nhận chỉ có một phần
nhỏ những luồng âm ba rung động của ánh sáng. Sự thụ cảm của lỗ tai ta
đối với âm thanh chỉ giúp cho chúng ta tiếp nhận có một bát độ nhỏ hẹp
trong cái biển âm thanh rộng lớn của vũ trụ. Nhiều loại thú cầm, chim
muông, côn trùng, sâu bọ có những thị giác, thính giác và khứu giác khác
hẳn của loài người; bởi đó vũ trụ của chúng nó bao hàm chứa đựng nhiều
sự vật mà chúng ta không nhận thấy và không thể nhận xét thấy rõ.
Người
biết suy nghĩ không khỏi lấy làm ngạc nhiên về hiện tượng này là con
người vốn thường vẫn tự hào về trí óc thông minh của mình, lại thua kém
loài cầm thú, chim muông và sâu bọ về tầm hoạt động của giác quan để
nhận xét vũ trụ bên ngoài, và về điểm này họ cũng thua kém cả những đồ
dụng cụ khoa học mà trí óc siêu việt thông minh của họ đã phát minh. Họ
bắt đầu tự hỏi rằng làm sao họ có thể tự mình nhìn thấy và quan sát
những sự vật trong cõi vô hình mênh mông rộng lớn. Thí dụ, chúng ta hãy
tưởng tượng rằng chúng ta có thể nới rộng tầm hoạt động và nhận xét của
giác quan đến mức làm cho chúng ta trở nên nhậy cảm hơn đối với ánh sáng
và âm thanh, dẫu rằng chỉ hơn mức thường độ một ít mà thôi. Phải chăng
chúng ta sẽ nhận xét được nhiều sự vật mà trước kia chúng ta không hề
nghe, thấy? Hoặc thí dụ như một vài người trong chúng ta bẩm sinh ra đã
có những giác quan phi thường, với một tầm thu nhận rộng lớn hơn: Phải
chăng là một điều tự nhiên nếu những người này có thể nghe và thấy những
sự vật mà chúng ta không thấy và không nghe? Và phải chăng họ có thể
nghe xa chẳng khác nào như một cái máy thu thanh, và thấy xa dường như
một cái máy vô tuyến truyền hình?
Đứng
trước cái thế giới vô hình huyền bí, vô tận bao la mà những khí cụ khoa
học tối tân của thế kỷ 20 đã tiết lộ cho chúng ta biết, thì người ta
phải nhìn nhận sự thật của những điều kể trên. Và nếu chúng ta nhìn lui
về lịch sử loài người, thì chúng ta thấy có nhiều trường hợp đặc biệt
được ghi chép về những khả năng nhận xét phi thường của một số người.
Một
trong những người đó là ông Swedenborg, nhà bác học và toán học trứ
danh của thế kỷ 18, đã có một năng khiếu thần thông phi thường.
Người
ta được biết rõ một chuyện về năng khiếu thần thông của ông, chuyện này
đã được nhiều nhà tai mắt chứng kiến trong số đó có nhà triết học
Emmanuel Kant.
Một buổi chiều
vào khoảng 6 giờ, ông Swedenborg đang ngồi dùng cơm với vài người bạn ở
thành phố Gothenburg, bỗng nhiên ông giựt mình và nói rằng một cơn hỏa
hoạn lớn đang xảy ra ở Stockholm là chỗ ông ở, cách đó độ 500 cây số.
Sau đó một lát, ông tuyên bố rằng ngọn lửa đã thiêu hủy ngôi nhà của một
người láng giềng và hăm dọa cháy lan đến ngôi nhà của ông. Đến 8 giờ,
cũng chiều hôm đó, ông cho biết, với một giọng nói đã trấn tĩnh, rằng
ngọn lửa đã được dập tắt ở khoảng cách nhà ông độ vài ba gian nhà khác.
Hai ngày sau, những lời của ông Swedenborg đã được xác nhận bằng những
lời tường thuật về cuộc hỏa hoạn, mà sự bộc phát nhằm đúng ngay vào lúc
ông Swedenborg giựt mình và có cảm giác đầu tiên về cơn tai biến này.
Đây không phải là trường hợp duy nhất: Tiểu sử của nhiều nhân vật tên
tuổi cũng đã ghi chép hàng trăm trường hợp tương tự, trong số đó có vài
người như Mark Twain, Abraham Lincoln, St. Saens, ... Trong vài trường
hợp, chính những người bà con thân quyến của họ đã có lúc nhìn thấy
thình lình những hình ảnh lạ lùng về những sự việc xảy ra ở cách rất xa,
hoặc sẽ xảy ra trong nhiều tháng hay nhiều năm về sau, với đầy đủ từng
chi tiết.
Nói về trường hợp ông
Swedenborg thì năng khiếu thần nhãn của ông từ đó trở nên một thứ giác
quan mạnh mẽ phi thường và liên tục. Trong phần nhiều những trường hợp
khác, năng khiếu đó hình như chỉ biểu lộ trong một lúc nhất định khi
đương sự tạm thời rơi vào một trạng thái xuất thần.
Người
Tây phương thường có khuynh hướng đón nhận những sự việc kể trên với
một thái độ hoài nghi và thậm chí với ít nhiều cử chỉ khinh thường. Tuy
nhiên, nay đã đến lúc mà người ta không thể nhìn xem những hiện tượng đó
một cách khinh rẻ như thế được nữa. Đối với những người có một tinh
thần cởi mở, sẵn sàng tìm hiểu những hiện tượng lạ lùng, đối với những
người thông hiểu các trào lưu khoa học và sự nhu cầu của thế hệ thì bất
cứ sự việc gì có liên hệ đến những khả năng lạ lùng huyền bí của con
người đều có tánh cách lý thú và có một tầm quan trọng vào bậc nhất.
Trong
số những nhà thông thái có tầm kiến thức rộng rãi, cho rằng những hiện
tượng thần bí, siêu nhiên, đáng được nghiên cứu bằng phương pháp khoa
học, và đã ra công sưu tầm về những hiện tượng đó, có bác sĩ J. B.
Rhine, giáo sư trường Đại Học Duke. Từ năm 1930, bác sĩ Rhine và những
người cộng sự với ông đã nghiên cứu ráo riết về những hiện tượng thần
giao cách cảm và năng khiếu Thần Nhãn trong con người.
Do
những cuộc thí nghiệm được kiểm soát chặt chẽ và một phương pháp đặc
biệt, bác sĩ Rhine đã khám phá được một điều là trong phòng thí nghiệm,
có nhiều người đã biểu lộ những khả năng cảm xúc bằng giác quan siêu
đẳng, nói tóm tắt là biểu lộ những năng khiếu thần thông. Người ta có
thể nhìn thấy những chi tiết về phương pháp thí nghiệm và những kết quả
sưu tầm của bác sĩ Rhine trong quyển sách nhan đề "Tầm Hoạt Động Của Trí
Não" do chính ông xuất bản năm 1947.
Những
nhà sưu tầm khác như Warcollier ở Pháp, Kotik ở Nga và Tichner ở Đức,
với những phương pháp thí nghiệm tương tự, cũng đã đi đến những kết luận
giống như của bác sĩ J. B. Rhine. Những bằng chứng khoa học hiển nhiên
đã giải tán mọi điều nghi ngờ về sự thật của những hiện tượng thần giao
cách cảm và năng khiều Thần Nhãn trên địa hạt tâm linh con người. Tuy
thế, cho đến nay khoa học chỉ mới chứng minh rằng hiện tượng Thần Nhãn
là một điều có thật. Người ta vẫn chưa tìm cách áp dụng năng khiếu đó
trên địa hạt thực tế. Nếu con người có được cái năng khiếu thần thông
đó, nó giúp cho y nhìn thấy được những gì xảy ra trong không gian mà
không cần sử dụng đến cặp mắt phàm, chẳng khác nào y như là một cái máy
vô tuyến thu ảnh (Television) thì chừng đó y đã có được một khí cụ mới
và quan trọng để thu hoạch những điều hiểu biết về con người và về vũ
trụ.
Trải qua nhiều thế kỷ, con người đã làm được
nhiều công trình lớn lao. Sự khôn ngoan khéo léo của y đã giúp y chinh
phục không gian và làm chủ được cõi giới vật chất. Nhưng mặc dầu y đã có
được sự khôn ngoan khéo léo đó, y vẫn là một vật yếu đuối và bất toàn.
Mặc dầu những sự chinh phục trên địa hạt vật chất, y vẫn còn bất lực và
bỡ ngỡ, lạc loài. Mặc dầu y đã thu hoạch được những kết quả thành tựu mỹ
mãn trên các lĩnh vực nghệ thuật, văn hóa và khoa học, y vẫn chưa tìm
ra ý nghĩa và mục đích của sự đau khổ mà con người phải chịu từ khi sinh
ra cho đến khi y từ giã cõi đời. Trong thời gian qua, con người đã tìm
ra những bí mật của hột nguyên tử. Có lẽ nhờ những sự khám phá gần đây
về những khả năng cảm xúc bằng giác quan siêu đẳng của con người và
những mối liên quan lạ kỳ giữa ý thức và tiềm thức, y sẽ có thể tiến sâu
vào lĩnh vực tâm linh huyền bí của chính mình. Sau nhiều thế kỷ dọ dẫm
tìm tòi, có lẽ sau cùng người ta sẽ tìm ra những câu giải đáp thỏa đáng
cho những điều bí hiểm quan trọng của đời người, những lý do vì sao y
sinh ra ở cõi thế gian và mục đích cùng ý nghĩa của sự đau khổ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét