Chương 27 - Làm sao diệt được sự mệt mỏi làm ta ưu tư và uất hận
Một trong những nguyên nhân chính của sự mệt nhọc là nỗi buồn chán. Để
chứng minh, tôi xin kể chuyện cô Alcice, thư ký đánh máy và tốc ký, ở
cùng đường với tôi. Đêm đó, cô về nhà, đau lưng như người mỏi mệt.
Mà cô
mỏi mệt thật. Cô nhức đầu, đau lưng, dã dượi muốn đi nằm liền, không
ăn uống gì hết. Má cô dỗ dành... cô mới chịu ngồi ăn. Giữa lúc đó, điện
thoại kêu: Tình nhân của cô mời cô khiêu vũ. Mắt cô bỗng sáng
ngời, tinh thần cô bừng tỉnh liền. Tới ba giờ sáng, về nhà, cô chẳng
mệt nhọc mảy may, mà còn vui tới nỗi không ngủ được nữa.
Vậy buổi tối, khi có vẻ mệt nhọc và cử động uể oải, cô ta thật mệt
không! Chắc chắn là thật. Cô ta mệt mỏi, vì cô chán ngán công việc, có
lẽ chán ngán cả đời sống. Hàng triệu người như cô Alice; bạn dễ thương
cũng là một trong những người ấy đấy.
Ai cũng biết rằng tinh thần buồn bã thường sinh ra mệt nhọc nhiều hơn
là sự cố sức. Mấy năm trước, ông Joseph E.Barrmack đăng ở tạp chí "Tâm
lý báo" một bài trong đó ông báo cáo vài thí nghiệm về sự mệt nhọc do
buồn chán gây nên. Ông bảo một nhóm sinh viên làm những trắc nghiệm mà
ông biết trước rằng họ không thích nhút nhát chút nào hết. Kết quả? Họ thấy
mệt nhọc, buồn ngủ, bực tức, cáu kỉnh và phàn nàn rằng nhức đầu, mỏi
mắt, hoặc đau bao tử. Có phải toàn là tưởng tượng không? Không. Nghiên
cứu kỹ, ông Barnack thấy khi ta buồn chán, áp lực của máu và số dưỡng
khí hít vào đều giảm, còn vui thích làm việc thì những cái đó tăng
liền.
Say mê làm việc hứng thú, rất ít khi thấy mệt. Chẳng hạn, mới rồi tôi
nghỉ hè ở bên hồ Louisse, trong dãy núi Canadian Rockies. Mấy ngày
liền, tôi câu cá trên một dòng suối, phải len lỏi trong bụi cây cao,
trèo qua những cảnh đó, hằng tám giờ liền mà không thấm mệt. Vì sao
vậy? Vì tôi hăng hái thích thú vô cùng. Tôi hãnh diện đã làm được một
thủ đoạn: câu được sáu con cá lớn. Nhưng nếu tôi chán ngán không muốn
câu, thì bạn thử đoán sẽ ra sao? Tôi sẽ mệt lử sau khi trèo gian nan ở
trên núi cao hơn 2.000 thước.
Vậy sự chán nản có thể làm cho ta mệt nhiều hơn là công việc, dù công
việc ấy cực kỳ khó nhọc như leo núi đi nữa. Lại như chuyện ông
S.H.Kingman Hội trưởng Công nông Nã Đại bảo Hội leo núi Cadian Alpine
Club, cho vài người cán bộ để huấn luyện một đội binh leo núi. Ông
Kingman được lựa vào số huấn luyện viên ấy. Theo lời ông thì ông và các
huấn luyện khác - từ 42 tới 59 tuổi - dắt những người lính trẻ tuổi
qua những khu băng tuyết mênh mông, tới chân những ngọn núi biệt lập cao
chừng 40 thước rồi dạy họ dùng thừng, bíu vào vách đá nhẵn mà lần lên
ngọn. Họ leo hết ngọn này tới ngọn khác. Sau 15 giờ leo trèo, những
thanh niên sung sức ấy, những thanh niên mới tập luyện sáu tháng trong
một đội cảm tử ấy, người nào người nấy mệt lử.
Có phải tại một vài bắp thịt không quen vận động mà mệt chăng? Vô lý.
Vì ai đã ở trong một đội cảm tử đều nhận rằng bắp thịt nào cũng đã được
luyện hết. Họ mệt lử vì họ ngán leo núi. Nhiều người mệt tới nỗi lăn
ra ngủ, không kịp ăn. Nhưng các huấn luyện viên gấp hai, ba tuổi họ
lại không mệt chút nào. Họ ăn rồi, bàn tán hàng giờ về những kinh
nghiệm trong ngày. Họ không mệt vì họ thích công việc ấy.
Khi bác sĩ Edward Thordike ở Columbia thí nghiệm về mệt nhọc, ông dùng
những trắc nghiệm làm cho học sinh luôn luôn thích thú để họ thức gần
trọn một tuần. Người ta kể lại câu chuyện này của ông: "Sự chán nản là
nguyên nhân độc nhất giảm sức làm việc".
Nếu bạn làm việc về tinh thần mà thấy mệt thì chưa chắc đã phải vì bạn
làm nhiều đâu, có thể vì bạn làm quá
ít đó. Chẳng hạn, bạn thử nhớ tuần trước, một hôm bạn luôn luôn bị bất
mãn, thư gởi đi không có hồi âm, hẹn hò thì lỡ, lo cái này, lo cái nọ,
không có cái gì nên thân hết. Bạn chẳng làm được gì cả, mọi việc trôi
chảy, bạn làm nhiều gấp 40 lần hơn trước, vậy mà về nhà vẫn tươi như
hoa. Bạn đã kinh nghiệm như vậy rồi chứ? Tôi cũng vậy. Chúng ta đã học
được bài học này: mệt nhọc thường không do công việc mà do lo lắng, bất
mãn và uất hận.
Trong khi viết cuốn này, tôi đi coi diễn lại một nhạc kịch vui rất lý
thú của Jerome Kerrn, nhan đề là Show Boat. Một vai trong kịch, đại tá
Andy nói: "Những kẻ may mắn là những kẻ có một việc làm hợp ý". Những
kẻ đó may mắn vì họ có nhiều nghị lực để làm việc ấy. Đi một khúc đường
ngắn với bà vợ càu nhàu, có thể mệt hơn là sánh vai đi 20 cây số với
một giai nhân mà mình thương yêu.
Vậy phải làm sao? Xin bạn hãy nghe câu chuyện của một thư ký trong một
công ty dầu lửa. Cứ mỗi tháng, cô ta lại phải làm luôn trong nhiều ngày
một thứ việc chán nhất trần ai là biên số và tên người vào những giấy
phép in sẵn. Công việc đó chán đến nỗi cô quyết định làm cho nó hoá vui
mới có thể sống mà chịu nổi được. Cô nghĩ ra cách đua với cô mỗi
ngày. Buổi sáng, cô đếm xem bữa ấy biên được bao nhiêu tờ, rồi buổi
chiều cô ráng biên được nhiều hơn. Cuối ngày cô cộng lại xem được bao
nhiêu tờ, rồi cô ráng bữa sau làm hơn số đó. Kết quả là cô lập kỷ lục
hơn những cô bạn đồng nghiệp. Và cô được cái lợi gì? Lời khen.
Không?... Lời cảm ơn? không..... Thăng cấp? Không... Tăng lương "đúp"?
Không... nhưng được cái khỏi thấy mệt vì chán ngán. Nhờ vậy tinh thần cô
hăng hái. Vì ráng hết sức làm cho một công việc chán nản thành ra vui
thích, nên có thấy có nhiều nghị lực hơn, và những lúc rảnh được vui vẻ
hơn, hứng thú hơn. Tôi được biết chuyện của cô vì tôi đã... cưới cô
làm vợ.
Dưới đây là một chuyện cô thư ký khác luôn luôn hành động như thể vốn
thích công việc của mình. Trước kia cô thường càu nhàu về công việc,
nhưng sau cô thôi hẳn. Tên cô là Vallie G.Golden. Cô kể: "Trong sở có bốn cô thư ký, mỗi cô đánh máy cho vài ông chủ sự. Nhiều
phen chúng tôi túi bụi vì việc. Có lần, một ông phó giám đốc bắt tôi
đánh lại một bức thư dài, nhưng tôi không tuân lệnh. Tôi ráng chỉ cho
ông ta thấy rằng bức thư đó có thể sửa lại được, thì không cần đánh lại. Ông
ta liền đáp nếu tôi không chịu đánh lại thì ông sẽ kiếm người khác!
Tôi nghe mà muốn nổi đoá. Thế rồi trong khi đánh lại bức thư kia, đột
nhiên tôi nghĩ rằng có bao nhiêu người khác chờ sẵn, chực nhảy vào
chiếm chỗ tôi đang làm. Tôi lại nghĩ rằng người ta trả lương cũng chỉ
để tôi làm công việc ấy. Nghĩ vậy, tôi thấy dễ chịu hơn. Thình lình tôi
nảy ra cái ý nên làm như mình thích công việc, dù thật tâm mình ghét
nó. Sau đó tôi thấy một điều quan trọng, là nếu tôi làm việc như tôi
thật tâm thích nó, thì rồi tôi thích nó một vài phần được.
Tôi cũng lại thấy rằng, vui vẻ làm thì công việc mau xong, thành thử bây
giờ ít khi tôi phải ở lại trễ. Nhờ có thái độ ấy, tôi được đắc lực và
khi một ông chủ cần một thư ký riêng, ông ta yêu cầu tôi giúp - vì ông
bảo tôi không có thói cằn nhằn! Vậy tôi đã tìm được chân lý này: Thái
độ tinh thần có một năng lực mạnh mẽ. Và sự ấy vô cùng quan trọng đối
với tôi. Nó đã hoán cải đời tôi một cách lạ lùng".
Như thế, té ra cô Vallie Golden đã vô tình theo triết lý "giả hoá
thiệt". Giáo sư William James khuyên ta "làm bộ như chúng ta can đảm,
rồi chúng ta sẽ thấy can đảm, "làm bộ như" chúng ta sung sướng rồi ta
sẽ sung sướng. "Làm bộ như" bạn đã thích công việc của bạn và sự giả
đó sẽ làm cho bạn thấy thích thật, bớt mệt, bớt lo lắng.
Mấy năm trước, anh Harlan A. Howard đã có một quyết định làm thay đổi
hẳn đời anh. Anh quyết làm cho công việc buồn tẻ của anh thành ra vui
thích. Mà công việc của anh đáng chán thiệt: rửa chén, cọ bàn và dọn
kem tại phòng ăn một trường đại học, trong khi các sinh viên cùng trạc
tuổi anh học vui vẻ đá banh hoặc đùa bỡn. Anh ghét công việc của anh
lắm, nhưng đã không thể bỏ nó được, anh nhất quyết giải trí, bằng cách nghiên cứu làm
kem cách nào? Bằng những thức gì? Tại sao có kem ngon, có kem dở? Anh
nghiên cứu về phương diện hoá học rồi anh thành một sinh viên giỏi nhất
trong những giờ hoá học. Anh thích học thực phẩm tới nỗi về sau anh vào
đại học Masschesets và giỏi nhất về môn " thực phẩm chuyên môn dụng
ngữ". Khi hãng bán ca cao ở Nữu ước treo một giải 100 Mỹ kim để thưởng
bài luận nào hay nhất về cách dùng ca cao, ai giật giải, bạn biết
không? Đúng. Chính là anh Harlan Howard. Cuộc thi ấy mở chung cho hết
thảy sinh viên các trường đại học.
Thấy khó kiếm việc làm quá, anh mở một phòng thí nghiệm và nghiên cứu
về vi trùng học ngay trong hầm nhà anh tại Massachussets. Ít lâu sau,
một đạo luật ra, bắt buộc các nhà bán sữa phải khai số vi trùng trong
sữa trước khi bán. Mười bốn công ty bán sữa ở Ambert nhờ anh việc đó và
anh phải mướn thêm hai người phụ tá.
Thử đoán coi hai mươi lăm năm nữa, anh Howard sẽ ra sao? Lúc đó, những
người hiện nay chế tạo thực phẩm sẽ về hưu hoặc chết, nhường chỗ cho
những thanh niên đầy nhiệt huyết và sáng kiến. Vậy hai mươi lăm năm
nữa, chắc chắn anh sẽ thành một người có uy quyền trong nghề, còn một
số bạn học của anh mà hồi trước anh phải dọn kem hầu, sẽ thất nghiệp
để mà chua xót, nguyền rủa chính phủ và phàn nàn không gặp thời. Nhưng
anh Harlan A. Howard chắc chắn đã không gặp thời, nếu anh đã không quyết
định làm cho công việc buồn chán của anh thành ra có hứng thú.
Mấy chục năm trước, có một thanh niên khác tên Sam, rất chán cái việc
phải đứng suốt ngày tiện bù loong trong một xưởng nọ. Anh muốn bỏ,
nhưng sợ khó kiếm được việc khác. Đã bắt buộc phải làm công việc buồn
tẻ này, nên anh quyết làm cho nó hoá vui. Và anh thi đua với một bạn
thợ máy ngồi bên. Người này phải dũa bù loong nhãn, còn anh phải tiện
nó cho đường trực kính đúng kích tấc. Hai người thỉnh thoảng lại đổi
máy lẫn nhau để xem ai được nhiều bù loong.
Về sau, viên đốc công thấy Sam vừa nhanh vừa khéo bèn cho anh một việc
khác nhiều lương hơn. Từ đó, anh leo hết cấp này đến cấp khác. Ba chục
năm qua, anh Sam Vauclain thành Hội trưởng công ty đóng đầu máy xe lửa
Baldwin. Nhưng khi xưa, nếu anh không biết làm cho công việc buồn tẻ
thành ra hứng thú, có lẽ bây giờ anh vẫn còn là chú thợ máy quèn.
Ông H.V.Kaltenborn, nhà phê bình tin tức nổi danh trên đài phát thanh,
cũng đã có lần phải áp dụng phương sách đó. Lúc ấy ông 22 tuổi, muốn
qua chơi Châu Âu, bèn xin chăn mướn bò, trên một chiếc tàu chở bò. Sau
khi đạp xe máy vòng quanh nước Anh, ông tới Balê thì vừa hết tiền. Ông
liền cầm chiếc máy chụp hình lấy năm mỹ kim, để lấy tiền đăng lời rao
tìm việc trên báo The New Yor Herald xuất bản ở Balê. Tiếp đó, ông được
một chân bán kính thực thể. Nếu bạn vào khoảng tuổi 40 tôi, chắc bạn
còn nhớ những kính thực thể thô sơ hồi đó, mà ta thường đưa lên mắt để
ngó hai hình giống nhau như in, đặt ở trong ống kính. Nhìn vào thì hai
hình chồng lên như thành một, làm ta cảm tưởng hình đó có bề sâu và bề
xa.
Vậy ông Kaltenborn bắt đầu đi từng nhà ở Ba Lê để bán những kính ấy cho
những người Pháp mà ông không biết nói tiếng của họ. Vậy mà ngay trong
năm đầu, ông đã thu được 5.000 mỹ kim huê hồng và nổi danh là tay bán
báo dạo kiếm được nhiều tiền hạng nhất hồi ấy. Ông nói với tôi rằng
kinh nghiệm ấy có ích cho ông hơn một năm học ở Đại học đường Harward
và giúp ông phát triển một đức tính để thành công là đức tự tin. Ông
tin chắc có thể bán cho các bà nội trợ Pháp bất kỳ món gì, cả những tờ
báo cáo về Đại hội nghị Liên Hiệp Quốc viết bằng tiếng Anh nữa.
Kinh nghiệm đó đã giúp ông hiểu rõ đời sống người Pháp. Sau này, ông
lại thấy tự hiểu biết đó thật là vô giá, khi thông tin cái việc bình phẩm
trên đài phát thanh những tin tức ở Châu Âu.
Ông làm cách nào mà tài tình như vậy, nhất là khi không biết nói tiếng
Pháp? Thưa rằng thế này: Ông xin chủ hãng kính viết cho một câu chào
bằng tiếng Pháp khác, rồi ông học thuộc câu ấy. Ông đi từng cửa, kéo
chuông.
Và khi gặp bà chủ nhà, ông đọc câu tiếng Pháp với một giọng kỳ dị tới
nỗi bà nào cũng tức cười. Rồi ông đưa kính và hình cho bà nọ. Nếu bà ta
hỏi câu gì thì ông rút cổ, đáp: "Người Mỹ... Người Mỹ". Rồi dở nón,
chỉ vào một miếng giấy trong dán trong đó, có chép đúng câu tiếng Pháp
mà ông đã học để chào khách. Bà chủ nhà cười, ông cũng cười, và lại đưa
bà ta coi thêm hình. Ông thú thiệt công việc bán kính ấy không dễ dàng
đâu. Ông kiếm ăn được, nhờ có mỗi một đức tính là quyết làm cho công
việc hoá ra có hứng thú. Mỗi sáng, trước khi ông đi ngó trong gương và
tự khuyến khích: "Này, Kaltenborn, nếu muốn có cơm ăn, anh phải làm
công việc ấy. Anh đã phải làm nó thì tạo sao không vui vẻ mà làm? Sao
không tưởng tượng rằng mỗi khi anh kéo chuông, là anh đóng vai trò trên
sân khấu và có nhiều khán giả ngó anh? Mà nghĩ kỹ, việc anh làm đó
cũng tức cười, khác chi một trò hề trên sân khấu. Vậy tại sao không
hăng hái vui vẻ đóng trò đi? .
Chính nhờ lối đó, ông đã làm cho một công việc ông vừa sợ vừa ghét hoá ra một việc thú vị và có lợi.
Khi nghe tôi hỏi gì nên khuyên những thanh niên Mỹ hăng hái muốn thành
công, ông đáp: "Có, tự chiến đấu với họ mỗi buổi sáng. Người ta nói
nhiều về sự quan trọng của thể dục, nhưng chúng ta còn cần luyện tinh
thần hơn. Mỗi buổi sáng chúng ta phải tự khuyến khích can đảm làm việc
cả ngày".
Phương pháp tự khuyến khích ấy ngớ ngẩn, nông nổi và ngây thơ ư? Không
đâu. Trái lại, nó là tinh tuý của một triết lý sâu xa: "tinh thần của ta
ra sao thì đời ta như vậy". Lời đó bây giờ cũng vẫn đúng như 18 thế kỷ
trước, khi Marc Aurele viết, lần đầu tiên trong cuốn "Trầm tư" của
ngài: "Tinh thần ta ra sao thì đời ta như vậy".
Mỗi ngày tự khuyên tự nhủ một giờ, bạn có thể hướng tinh thần của bạn tới sự can đảm, hạnh phúc, nghị lực và bình tỉnh.
Khi nuôi dưỡng tư tưởng chân chính, sẽ thấy công việc đỡ chán nhiều.
Ông chủ của bạn muốn bạn yêu nghề, để ông thu được nhiều tiền hơn.
Nhưng hãy quên cái muốn của họ đi mà chỉ nghĩ đến cái lợi của bạn khi
bạn yêu công việc hơn lên. Bạn nên nhớ rằng tinh thần ấy có thể làm cho
hạnh phúc trong đời bạn tăng lên gấp đôi, vì ta chỉ dùng phân nửa những
đức tính của ta để làm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét