8. Những tướng cách phụ nữ
Theo
quan niệm “ Nam ngoại nữ nội” dưới nhãn quang tướng học Á đông, những
tướng tốt đối với đàn ông không bắt buộc phải là tốt với đàn bà. Chẳng
hạn :
-Đàn
ông mà trán cao, rộng, sáng sủa, đầy đặn là biểu hiện của trí tuệ sâu
sắc, kiến thức rộng rãi, dễ thành đạt lúc thanh niên. Ở đàn bà, kẻ có
tướng trán như vậy lại là kẻ long đong về đường gia thất.
-Đàn
ông có lưỡng quyền cao rộng và nảy nở là tướng có thực quyền, quả cảm
ưa phấn đấu. Ở đàn bà, quyền cao và nảy nở là kẻ có khí khái trượng phu,
có khuynh hướng ăn hiếp chồng và khắc chồng.
-Đàn
ông có tiếng nói cao và vang xa hoặc trầm hùng ngân lâu như tiếng
chuông là tướng âm thanh thượng cách, chủ về thông minh tháo vát, hoặc
công danh đầy hứa hẹn. Ngược lại, đàn bà mà có âm thanh kể trên lại là
tướng âm thanh khắc phu, dâm loạn, phá bại hoặc trùng hôn.
Trong
phép xem tướng diện mạo nữ giới, ngũ quan cần phải để ý đã đành nhưng
ba bộ phận mà người xem tướng đặc biệt phải chú trọng là Mắt, Mũi, Môi
và Miệng. Mắt cho ta biết được trạng thái qua tinh thần của nữ giới, Mũi
chủ về chồng, Môi và Miệng liên quan mật thiết đến con cái.
Nói một cách tổng quát, đàn bà có mũi ngay ngắn, dài và đầy đặn, sắc da tươi mát và không có tỳ vết được xem là tướng vượng phu.
Miệng
không lớn, không nhỏ, hay môi dày mỏng tương xứng, lưỡng quyền bằng
phẳng không quá cao, không nổi, toàn thể da mặt hồng nhuận không có nốt
ruồi. Tàn nhang hay bã chè làm mất vẻ mỹ quan là tướng ích tử.
Lục
phủ (hiểu theo nghĩa rộng là toàn thể xương khuôn mặt) chủ về tiền tài,
sinh kế mà người chồng có thể hưởng thụ khi lập gia đình với phụ nữ
đó*. Nếu khuôn mặt phụ nữ đầy đặn phúc hậu, xem tướng cân phân (trong
trường hợp nếu là người gầy thì dĩ nhiên mặt không thể bầu bĩnh. Lúc đó,
chỉ cần xương lưỡng quyền không lộ cao, mặt mũi không hốc hác) là tướng
vượng tài.
*Nói
như vậy không có nghĩa là người chồng sẽ được hưởng của hồi môn mà chỉ
hàm ý rằng nhờ sống chung với người vợ đó mà công việc làm ăn của người
chồng sẽ vượng thịnh về mặt tiền bạc.
Dưới
nhãn quan tướng học nam giới, người đàn bà có đủ cả tam vượng là người
vợ lý tưởng trong đời sống gia đình. Nói khác đi, đó là loại cát tướng
của phụ nữ.
Ngược
lại, Mũi lệch cong queo hoặc trơ xương, lỗ mũi hếch hoặc quá ngắn là
tướng lấy chồng khiến phu quân tổn thương, khắc hãm hoặc ly hôn. Vì vậy,
tướng thuật có câu : “Mũi đàn bà là phu tinh”. Miệng quá lớn và mỏng,
môi sáng hoặc trắng bệch, lưỡng quyền cao nhọn : vừa khắc chồng lại vừa
lận đận về đường tử tức. Khu vực quanh mắt thâm đen, sâu hõm là tướng
không con.
Đàn
bà tối kỵ tướng cách cô thần nghĩa là mắt tròn và trắng dã, mũi hếch,
môi vẩu và lộ cả chân răng, tai khuyết hãm, trán lẹm hoặc lồi, hoặc có
loạn văn, đầu quá lớn, mũi sư tử, mũi sống kiếm mà lưỡng quyền cao rộng,
mắt lồi, lông mày dựng đứng,thân hình quá ngắn mà mặt lại quá dài. Pháp
lệnh quá dài và sâu lúc còn trẻ, tiếng nói như phèng la bể v.v… người
có tướng cách cô thần vừa khắc chồng, vừa tổn con, về già cô đơn khốn
khổ.
Về
phong thái có loại phụ nữ vừa thoáng nhìn đã khiến ta sinh lòng tà vạy
là loại dâm tướng, vì mọi cử động hành vi, ngôn ngữ, đầu, mặt, đuôi mắt
đều khơi động xuân tình. Lại có loại phụ nữ thoáng thấy sinh dạ nể vì do
ở ánh mắt nghiêm, tinh thần nghiêm túc, đó là tướng tôn quý; lại có
tướng người vừa thấy mặt đã nảy sinh lòng coi rẻ là loại tiện tướng; còn
loại người thoáng qua có cảm giác kinh sợ là tướng hình khắc.
Một
số người khảo cứu về sự tương quan hợp hình tướng của đời sống nội tâm
phụ nữ, sau khi quan sát và phỏng vấn một số phụ nữ thành gia thất đã
phân chia phụ nữ thành 3 loại điển hình chính yếu sau đây :
Loại hướng nội :
Loại
có tâm hồn hướng nội, phần lớn có dáng người thấp, cổ ngắn, đầu khá
lớn,miệng rộng, môi dày. Cá tính trội yếu của họ là trầm mặc, không ưa
gây gổ lạc quan, dễ dàng thông cảm, thích ăn uống, tham lợi ích nho nhỏ,
tâm địa thẳng thắn, không thích thủ đoạn.
Trong
đời sống gia đình, họ là hiền thê, lương mẫu, thai kỳ đều đặn, chính
thường, dễ sinh sản và lắm con, nấu nướng khéo, không ưa nhõng nhẽo,
chung thuỷ với chồng.
Loại hướng ngoại:
Phần
lớn có dáng người cao và thon, vai xuôi mông nhỏ, tứ chi dài, mũi cao,
môi mỏng cằm hơi lộ, cổ nhỏ và dà, da dẻ hơi khô và mỏng. Cá tính của họ
dễ vui, dễ buồn, thích hoạt động nhưng mau chán.
Về mặt sinh lý, họ dễ bị bệnh phụ khoa, tính lãnh cảm. Trong đời sống gia đình, họ không ưa nấu nướng,kém tháo vát, dễ cáu kỉnh.
Loại trung tính:
Loại
này là trung gian giữa hai loại trên nên thân hình có thể cao hơn và
khá mập, có thể hơi thấp và gầy, môi miệng không quá đầy, không quá
mỏng. Các bộ phận khác cũng ở mức trung dung. Họ có thể là kết tinh phần
tốt hay phần xấu của hai cá tính hoặc nội hay hoặc ngoại tuỳ theo sự
tốt xấu của từng bộ vị. Quan sát loại tướng trung tính này rất khó, cần
phải có kinh nghiệm và nhãn quang bén nhạy mới đạt được mức độ tương đối
chính xác .
Tuy
nhiên, các điểm nêu trên chỉ có tính cách khái lược. Việc xem tướng
trong thực tế không quá đơn giản như vậy. Muốn có một ý niệm rõ ràng,
chúng ta cần phải đào sâu vấn đề hơn nữa, xuyên qua việc khảo sát một số
lãnh vực bao gồm nhiều trọng đề dưới đây :
a ) Lãnh vực cá tính
1 - Tướng người ham mê nhục dục
Tính dục thì ai cũng có, nhưng người quá trọng nhục dục thường ít ra cũng có một vài nét tướng đặc biệt :
-Đàn
bà trời phú sắc da mặt trắng hơi pha màu hồng lạt gọi là đào hoa sắc
hoặc mặt trắng mà có nhiều tàn nhang đều chủ về háo dâm
-Lông mày nhỏ hẹp, uốn cong dài quá mắt, mắt lớn và sáng
-Phía
dưới mắt ( Lệ đường ) có lằn xếp hay gân màu xanh xám hoặc hồng chạy về
phía đuôi mắt ( Ngư vĩ ) là tướng đàn bà thường có khuynh hướng ân ái
vụng trộm
-Mắt đào hoa thấy người đàn ông xa lạ, ưa nhìn, thừơng hay cười tình liếc xéo
-Phía dưới mắt có nốt ruồi đen nổi rõ hoặc mắt không khóc mà vẫn ướt và nhìn cặp mắt không rõ cười hay khóc : tiện dâm
-Miệng lớn và khoé đi xuống lưng ong
-Ngồi
hai bàn chân bắt chéo, hai bàn tay đan nhau và bó lấy gối hoặc hay rung
gối là tướng đàn bà trong đới ít ra cũng vài ba bận thông dâm
-Eo lệch, rốn quá sâu, lòng trắng pha hồng, tiếng nói liến thoắng hầu hết là những người dễ bị quyến rũ vào đường sắc dục
-Bước đi uốn éo như rắn, nhún nhẩy như chim sẻ và thường ngoảnh lại là tướng háo dâm
-Nhân trung gẫy khúc, quanh mép miệng sắc da xanh xám một cách tự nhiên không vì bệnh tật
-Mặt ngăm đen, đầu tóc rậm, ánh mắt ướt và sắc, da bóng bẩy
-Có thói quen lấy đầu lưỡi khoa động nước răng, hoặc cận răng đen xám, không cười mà thường lộ chân răng
-Trường hợp phụ nữ hút thuốc lá, kẻ có thói quen thở khói rất mạnh là kẻ háo dâm
Những
nét tướng cho thấy rằng có thể căn cứ vào nhiều bộ vị, nhiều lãnh vực
sinh hoạt để biết khái quát về cá tính tiềm ẩn của một cá nhân về mặt
tình dục. Hơn nữa, mọi nét tướng thể hiện dục của nữ giới, dù đứng trên
bình diện sinh lý hay đạo lý, không có chung cùng một giá trị : có những
nét tướng khả chấp, có những nét tướng bất khả chấp. Dục tính không
phải đương nhiên là xấu xa như các nhà Nho cổ hủ vẫn thường lên án, mà
xấu hoặc tốt còn tùy người, tuỳ trường hợp. Đặc điểm này cần phải được
quan tâm đặc biệt để có thể nhận định đúng đắn cá tính của người phụ nữ,
đồng thời có thể chế ngự hay hướng dẫn họ tuỳ theo sở nguyện của mình.
Ngoài
ra, người phụ nữ có tính trăng hoa, chưa hẳn họ đã có dịp thực hiện
được cá tính đó. Muốn biết người phụ nữ đã có cơ hội thực hiện được tính
trăng hoa của họ hay không, cần phải lưu ý các khu vực sau :
a
) Nhân trung có tía đỏ : Phía trên Nhân trung là mũi, phía dưới là
miệng, mũi và miệng có hình dạng tương tự như bộ phận sinh dục của nam
và nữ giớ . Tướng học căn cứ vào đó để phát hiện ra rằng phần lớn phụ nữ
chìm đắm trong hoan lạc nhục dục đều có một đường vạch ngang màu đó
hoặc hồng ( tuỳ theo truy hoan nhiều hay ít ), nhỏ như sợi tơ nhện, phải
tinh mắt lắm mới thấy. Nếu như ta thấy dấu hiệu đó xuất hiện thì có thể
biết là người phụ nữ đó quả là đã có gì rồi .
b
) Mắt tam bạch : Bình thường nếu người đàn bà đó không có loại mắt này
nhưng vì đắm say nhục dục nên có thể sau một thời gian ngắn, khu vực
xung quanh lòng đen bị thu hẹp dần nhường lại chỗ cho lòng trắng khiến
lòng đen đều bị lòng trắng bao bọc, biến thành một loại tam bạch nhãn
tạm thời. Còn như nếu bình thường vẫn là hạ tam bạch nhãn, thì nếu có
thông gian ta sẽ thấy Nhân trung có vạch hồng hoặc đỏ như trên vừa nói.
c
) Khu vực Lê đường : Bình thường không có màu sắc xanh đen nhưng nếu
giao hoan đầy lạc thú, tinh dịch tiết ra quá nhiều thì thường biến sang
màu xanh đen.
d ) Khu vực Sơn căn và Ngư vĩ : Đột nhiên có màu xám đen ở hai bên hoặc rõ rệt hơn lúc bình thường.
Tất
cả các dấu hiệu về màu sắc ở bộ vị nói trên là các bằng chứng cụ thể
của kẻ lặn hụp trong tình dục. Những đàn ông chưa từng ân ái với tình
nhân, những đấng phu quân xa nhà một thời gian dài khi gặp mặt tình nhân
hoặc vợ nhà chưa mây mưa mà đã thấy có hầu hết các dấu hiệu dẫn thượng
thì quả là đáng ngại, cần phải lưu tâm theo dõi hành tung của người nữ
đó hầu tránh những hậu quả tai hại có thể xảy ra.
2 - Tướng người trinh thục :
Trong
nền luân lý á đông cổ điển, người ta đặc biệt quý trọng cá tính trinh
tiết thuần thục của phụ nữ, coi đó là một đức tính tối cần thiết của hôn
nhân, là một hãnh diện của người chồng. Muốn coi tướng đàn bà con gái
để xem đức tính trên của họ cao thấp tới mức độ nào, điểm tối trọng yếu
là cặp mắt, vì mắt là cửa sổ tâm hồn. Cặp mắt đối xứng qua sơn căn, mục
quang ôn hoà thanh tĩnh, không liếc xéo là một bảo đảm đáng kể. Tuy
nhiên, như vậy vẫn chưa được đầy đủ. Những người đàn bà lấy chồng giữ
vững được ái tình thủy chung như nhất, ngoài cặp mắt kể trên thường có
tướng kết hợp một số đặc điểm sau :
-Trán tròn nhưng không cao, không lồi
-Lông mày đẹp và phối hợp với cặp mắt, tạo ra một phong thái khiến mọi người phải kính nể
-Môi hồng, răng đều và trắng
-Mũi ngay ngắn, không trơ xương, không quá cao
-Đi đứng, ngồi chững chạc, đoan trang
-Tính nết ôn hoà nhưng không nhu nhược, ít nó, ít cười
3 - Tướng người hung tợn
Đại để đàn bà tính nết hung tợn, mạnh bạo, thường phạm vào nhất vài ba dấu hiệu sau đây :
-Miệng thô, môi lộ xỉ
-Giọng nói khô khan, tóc cằn cỗi và ít
-Quyền cao và lộ, hầu lộ, tiếng nói rè như tiếng phèng la bể
-Mũi gầy và lộ khổng, mắt có hung quang
-Mặt đen, lông mày thô, thân hình kệch cợm
-Mắt nhỏ, miệng túm, giọng đàn ông, chân tay lông mao rậm như đàn ông
-Thân dài, giọng đớt, tay chân thô, ngón tay mập và quá ngắn
-Mắt lộ tứ bạch mà mục quang lại lỗ liều
4 - Tướng người không thích ràng buộc trong gia đình
Những phụ nữ thích tự do phóng khoáng không có năng khiếu của người nội trợ cổ điển Á đông là những kẻ có nét tướng sau :
-Lông mày đậm và khá lớn, mọc xa nhau và không có giữa lông mày với mắt khá rộng, miệng rộng, da mỏng
-Mắt tròn, lớn, mục quang thuộc loại cương nhi cô, tính thích cạnh tranh, đua đòi, ưa được người xu phụng, đi lanh lẹ và cao
-Khéo ăn nói, giao thiệp rộng và thích tự quyết định thân mình, coi rẻ tiền bạc, không thích săn sóc con cái, bếp
5 - Tướng người cần kiệm
Tóc
den mướt, lông mày hình dạng vừa phả, màu xanh đen, lòng đen lòng trắng
phân minh và mục quang mạnh mẽ nhưng ẩn tàng thức khuya không mệt mỏi,
dậy sớm mà thần sắc thư thái, nói năng chậm rãi từ tốn, không mấy khi
than thở oán hận, không cạnh tranh hơn thua với người về công việc ….là
những đặc điểm của tướng người giúp việc có năng suất cao, người vợ đảm
đang tháo vát.
6 - Tướng người biếng nhác
Những kẻ biếng nhác hoặc vô tài bất tướng trong mọi hoạt động ( đặc biệt là trong việc tề gia ) đều thuộc các tướng cách sau :
-Tóc nhiều, thô lộ mày thô và giao nhau
-Mắt tròn, nhỏ, đen trắng không rõ ràng, mục quang hôn ám, hoặc trắng nhiều đen ít
-Mắt lớn hơi lồi, đen trắng phân minh nhưng mục quang lúc nào cũng ngơ ngác khiếp hãi như mắt nai, mắt hươu
-Mắt lúc nào cũng như kẻ ngái ngủ
-Ham ăn, ham ngủ, thích rong chơi
b ) Lãnh vực vận mạng
1 - Tướng người cao quý
Đại để tướng người cao quý toàn thân toát ra vẻ quý phái sang cả
Những
người như vậy diện mạo không hẳn là xinh đẹp, đôi khi còn dưới mức
trung bình, nhưng hầu hết đều có một số nét tướng sau đây :
-Mục quang sáng sủa, chính đính và mạnh mẽ khiến người đối diện phải kính nể.
-Vành tai đầy đặn và hơi hồng, trái tai trái trắng hơn da mặt.
-Mũi thẳng và phối hợp thích nghi với lưỡng quyền tạo thành một khối có thể vững vàng, mang tai xuôi thẳng.
-Lông mày thanh nhã có thần khí.
-Trán tròn, không thấp không cao, tóc đen mịn thanh nhã, cổ dài.
-Xương và thịt của mặt cân xứng, môi hồng răng trắng và đều.
-Tiếng nói trong và ấm, giọng điệu thong thả nghiêm trang
-Ngón tay thon và thẳng, chỉ tay mịn và rõ.
2 - Tướng người phú túc
Đàn
bà có số no đủ thường có : khuôn mặt đầy đặn và hồng nhuận nhưng phải
không được thành đào hoa sắc hoặc có tàn nhang, mày thanh, mục quang
sáng một cách hiền hoà, tai dày và cứng, mũi thẳng và dài ( dán đài,
đình uý rõ và cân xứng đầy đặn ) nhân trung dài, địa các tròn đầy và
vững, mang tai nảy nở nhưng không bạnh ra phía sau, môi hơi dày và có
sắc hồng tự nhiên, lòng bàn tay hồng hào và dày, bụng tròn, lưng nở,
tướng đi rậm rãi, thân thể có mùi thơm tự nhiên.
3 - Tướng người khốn khổ
Tướng đàn bà khốn khổ nghèo đói hoặc long đong được biểu hiện qua những nét tướng sau đây :
-Trán hẹp và thấp, tóc khô và vàng mắt sâu, mày đậm: long đong về sinh kế hiếm con
-Bụng quá sẹp, eo quá nhỏ, lưng quá hẹp suốt đời không có lộc
-Mũi nhỏ hẹp lệch ngắn, chuẩn đầu không thịt
-Môi quá dày, miệng quá rộng mà tay ngắn, ngón tay mập ngắn và thô
-Tiếng nói nhỏ và khàn, mặt lúc nào cũng có sắc thái sầu thảm
-Mặt lúc nào cũng như ngửa lên trời dáng dấp và giọng nói có vẻ đàn ông
-Sơn căn thấp, gãy lệ đường khô hãn tròng mắt vàng lạt có gân máu
4 - Tướng người có nhiều con
Những
bộ vị quan trọng để quan sát về đường tử tức của phụ nữ là Lê đường
(còn gọi là Ngoa tàm), nhân trung, vú, mông, kế đó là hai mắt và hai
tai.
Thông
thường trừ một vài loại mắt tối kỵ như mắt tam tứ bạch, mắt dê, mắt
heo, mắt đào hoa không kể còn phần đông nên có lòng đen lòng trắng rõ
ràng, mí mắt dài, mục quang sáng sủa, phía dưới hai mắt đầy đặn không
không có tỳ vết thiên nhiên như nốt ruồi, tàn nhang, gân máu, Nhân trung
sâu và thẳng, trên nhỏ dưới rộng, chỉ tay rõ và tươi, vú lớn và núm vú
sạm, không được quá nhỏ và lệch lạc : miệng đều đặn, môi có nhiều vằn,
mông tương xứng với thân người.
Riêng
về tai, một vài tác phẩm cổ điển ghi rằng : tai giúp ta biết được đứa
con dầu lòng sẽ là trai hay gái. Theo lý thuyết này, nếu tai phía trái
của người mẹ mà đầy hơn tai phía phải thì con đầu lòng sẽ là trai, tai
phía mặt đầy hơn thì con đầu lòng là con gái.
5- Tướng người hiếm con hoặc không con
Ngược
lại với tướng đàn bà nhiều con và sinh đẻ dễ dàng nói trên là tướng phụ
nữ hiếm hoi hoặc không con. Các dấu hiệu này thể hiện ở nhiều phía của
cơ thể.
Tại
diện mạo ta thấy có : tóc thô và vàng; mày ngắn, hẹp, thưa và mỏng hầu
như không có hoặc thô ngắn, trán quá cao : mắt sâu hãm và khu vực Lệ
đường khuyết hãm cả về phẩm lẫn lượng; mắt mông lung, hỗn tạp: có quyền
mà không có mang tai thích nghi : mũi hoặc quá gãy, thấp hoặc quá cao,
nhọn và có gân hay vết hằn tự nhiên : môi vểnh và xanh xám hoặc trắng
bệch, hoặc môi trên bao phủ môi dưới : nhân trung hẹp và bằng phẳng, da
mặt không có huyết sắc : mặt nhỏ nhọn, tai quá nhỏ.
Tai
thân hình : vú gẫy, đầu vú hướng xuống, núm vú thụt sâu vào thịt : da
mỏng mà xương quá ít, thịt khô hoặc thịt nhiều mà xương quá nhỏ.
Nếu
chỉ có vài ba khuyết điểm nhỏ liên quan đến mắt, môi, tai v.v… thì đó
là tướng hiếm hoi nhưng khả dĩ còn cơ duyên tử tức. Nếu cả đầu mặt lẫn
thân hình đều có khuyết điểm trầm trọng như lệ đường,vú, Nhân trung,
trán bị phá thì rất ít hy vọng về đường con cái.
6 - Tướng đàn bà khắc chồng :
Danh
xưng hình khắc ở đây có nghĩa rất rộng rãi. Nhẹ thì hàm ý rằng khi lấy
chồng, vợ chồng sẽ xung đột, gia đạo sóng gió, ít khi có hạnh phúc, nặng
thì biểu lộ sự hung hiểm xảy đến cho người chồng công danh sự nghiệp,
sức khoẻ hoặc sinh mạng, vợ chồng chia ly hay đứt đoạn. Ngoài ra khi
luận đoán về sự hình khắc của đàn bà đối với chồng, ta còn cần phải đặc
biệt chú ý đến chính bản thân người chồng nữa. Nếu toàn thể bộ vị của
người chồng tốt đẹp, nhất là mạng cung thê thiếp không khuyết hãm thì sự
tai hại của hình khắc giảm thiếu rất nhiều. Trái lại, bản thân người
chồng (cả hình tướng lẫn tâm tướng) đều dưới mức trung bình thì sự tác
dụng của hình khắc do người vợ đem lại sẽ rất lớnvà có ảnh hưởng sâu
rộng đến mọi lãnhvực sinh hoạt của đấng phu quân. Xin độc giả lưu ý điểm
này trước khi đoán xét về tướng hình khắc chồng của phụ nữ.
Đại để các dấu sau đây đều bị tướng học liệt kê vào tướng đàn bà khắc chồng :
- Phía dưới hai mắt vô bệnh tật mà có sắc khí xanh xám .
- Mắt lớn lồi ( nhỏ và dài mà lồi thì đỡ tai hại hơn ). Lông mày thưa vàng và ngắn .
- Mày thô, mắt có sát khí
- Hai mép miệng và hai phát lệnh đều có nốt ruồi
- Phần sống mũi ( Niên thượng, thọ thượng ) nổi gân máu
- Trán cao, hai phần Nhật Nguyệt giác nổi cao và hướng lên
- Tiếng nói như nam giới hoặc oang oang như sấm động hoặc âm thanh sắc cao như sói vào tai người nghe
- Trán vuông, mày lớn cao và đậm
- Xương lưỡng quyền vừa thô vừa lộ
- Tán lồi, cổ ngắn, hoặc trán cao mặt hãm
- Mũi hếch thấp, mắt thuộc loại tam tứ bạch, hoạc hình tam giác mà lộ hung quang. Có đủ tất cả là tướng đại hình khắc và yểu
- Sắc da mặy thô xạm như màu đất chết
-
Mặt chè bè về chiều ngang ( phần Trung đình ) mà lại sát thanh nghĩa là
tiếng nói lanh lảnh như tiếng kim khí va chạm nhau khiến người nghe cảm
thấy ớn lạnh xương sống .
- Trán hẹp, nhọn, tai thấp hoặc trán nhỏ nhọn hẹp và lông mày giao nhau
- Trán có tật bẩm sinh ( vết sẹo, vằn trán thuộc loại loạn văn rất rõ lúc còn niên thiếu ) .
-
Mũi hếch, tai khuyết hãm, mày thô và mắt có tia máu ăn lan từ tròng
trắng xuyên qua lòng đen đén đồng tư, thuật ngữ tướng học gọi là Xích
mạch xâm đồng
- Sơn căn có nốt ruồi và dưới mắt có nhiều vết nhăn ( đây nói phụ nữ ở trung niên trái lại )
- Xương lưỡng quyền nổi cao và nhọn như chỏm núi
- Tác có phù quang ( trơ trẽn không có sinh khí ), da trắng và khô mốc
- Mặt dài quá, cộng với miệng lớn ( thành ngữ nói là miệng ngoác tới tận mang tai như miệng cá sấu)
- A án đường có một lằn sâu chạy thẳng lên trán, thuật ngữ tướng học gọi là Luyến trâm văn .
-
Lông mày thưa và mường tượng như co rút lại ( nghĩa là đầu và lông
chân mày lớn ngang nhau trái với lẽ thường là đầu lông mày thon dần còn
chân lông mày lớn )
- Cốt cách thô lỗ, tóc cứng như rễ tre
- Xương che lỗ tai ( mạng môn cốt ) nổi cao.
Đi
xa hơn nữa, Nghiễn Nông cư sĩ trong bộ Quan nhân ngư cho rằng có một
số tướng cách của phụ nữ giúp ta biết được bụng dạ của người đó đối với
chồng hiền thục hay hung dữ thậm chí có thể vì lý do nào đó manh tâm hãm
hại chồng. Theo tác giả trên, phàm đàn bà lông mày mọc ngược chiều tự
nhiên, mắt hình tam giác hoặc lộ tam tứ bạch, hoặc phía dưới mũi có hằn
giống như móc câu, sắc mặt xanh xám ( tục gọi là mặt gà mái). Lệ đường
ảm đạm, sơn căn có sợi máu rất nhỏ chạy thẳng đến giữa trán, chuẩn đầu
có màu đỏ, Ngư vĩ xanh xám, nốt ruồi (sống càng xấu hơn chết ) ở mang
tai đối với chồng dễ nổi hung tính và là các dấu hiệu khắc phu nặng nề.
Kết duyên với họ không có hạnh phúc thật sự. Nếu kẻ đó còn có thêm nhiều
tia đỏ ở lòng trắng mắt. Sống mũi có khí sắc xanh chạy luôn ấn đường
thì tâm tính tàn nhẫn. Những người có tướng cách như vậy chẳng những sẵn
sàng đoạn nghĩa phu thê khi bất hoà mà còn có thể đi đến chỗ mưu hại hạ
độc thủ với chồng khi bị cơn gian làm mất lý trí.
7 -Tướng đàn bà vương phụ ích tử
Đặc
điểm của tướng bà vương phụ về mặt mạng vận là khi lập gia đình dù chỉ
về nhiều lãnh vực đặc biệt là sự nghiệp và tiền bạc. Đại để phụ nữ như
vậy thường có nhiều nét tướng thuộc các loại sau đây :
-
Nói một cách tổng quát thân hình diện mạo đôn hậu, đẹp một cách oai vệ,
cử chỉ ngôn ngữ thư thái ôn hoà : khuôn mặt cân phận về cả tam đình,
Ngũ nhạc và tứ đậu. Nếu đi sâu vào từng chi tiết ta thấy :
- Ấn đường rộng rãi không xung phá, diện mạo tươi tỉnh.
-
Mũi thuộc loại Huyền đảm tỵ đúng cách : màu da khuôn mặt tươi nhuận đặc
biệt là chuẩn đầu và tỵ lương sáng sủa, phối hợp với mày thanh mắt đẹp.
-
Lòng bàn chân hoặc trong thân thể (rốn hoặc khu vực trên dưới rốn một
chút, phần ngực dưới hai vú, hai bên háng ) có nốt ruồi đen huyền hoặc
son.
-
Bất kể gầy mập mà lòng bàn tay mập, nếu lòng bàn tay có thịt quá đầy
thì đa dâm và có thể ngoại tình mặc dầu vẫn vượng phụ : màu sác hồng
nhuận ấp áp, ngón tay thon dài, thẳng, khít nhau, chỉ tay rõ và đẹp.
Thường
thường tướng đàn bà vượng phụ đi đôi với tướng ích tử. Vì người đem lại
thịnh vượng cho chồng đa số đem lại ích lợi cho con cái. Trong một số ý
nghĩa chuyên biệt hơn, ích tử còn có ý nghĩa là sinh con trai quý hiếm,
làm rạng rỡ gia môn lo tròn đạo hiếu và giữ vững dòng giống (không phân
biệt vợ lớn vợ bé ).
Về điểm này các sách tướng hầu như đều đồng ý về một số dấu hiệu sau :
Ngũ quan phối hợp đúng cách đặc biệt là sắc mặt trắng ngà, mắt phượng môi hồng.
- Rốn hoặc khu vực dưới rốn đôi chút có nốt ruồi sống màu son tàu.
- Xung quanh khu vực bụng có thịt nổi rõ như một vành đai.
Người
đàn bà có hai đặc điểm về tướng cách cuối cùng như trên dường như chắc
chắn sẽ sinh quý tử bất kể diện mạo xấu đẹp ra sao. Vì đó là hai nét
tướng ngầm có khả năng chế ngự tất cả các phá tướng khác (dĩ nhiên là
trong trường hợp như vậy ông chồng phải có khả năng truyền giống thì quý
tướng trên mới phát huy được kết quả thực tiễn).
9. Nguyên lý âm dương và ngũ hành
ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH TRONG VŨ TRỤ QUAN TRUNG HOA
a ) Lược sử :
Thuyết
âm Dương Ngũ hành đã được đề cập đến trong một tác phẩm thành văn tối
cổ Trung Hoa là kinh Dịch. Tuy vậy, kinh Dịch của Khổng Tử chỉ là sự
thâu nhập các kiến thức và quan niệm của người xưa từ thời vua Phục Hy
lưu truyền đến đời Khổng Tử. Khổng Tử chỉ góp nhặt và suy diễn thêm cho
thành một hệ thống và ghi lại thành văn bản cho hậu thế mà thôi.
Theo
truyền thuyết, người đầu tiên nhận thức được các lẽ âm dương biến hoá
của Trời Đất, vạn vật là vua Phục Hy ( khoảng 44 thế kỷ trước Tây lịch
), người minh thị đề cập đến cái dụng của Ngũ hành là vua Hạ Vũ ( khoảng
22 thế kỷ trước Tây lịch ).
Đến
thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, tại nước Tề ( nay là tỉnh Sơn Đông ) có
học giả Trâu Diễn, căn cứ vào Kinh Dịch, đã phổ biến hết tinh thần và
công dụng của Âm dương, ngũ hành không những vào sự vật thiên nhiên mà
còn cả vào việc người nữa. Do đó, người đời sau coi Trâu Diễm như người
khai sáng ra phái Âm Dương. Phái này chính là nguồn gốc của phái Lý Số
do các học giả đời Tống sau này sáng lập.
Đến
đời Hán, học giả Dương Hùng ( 53 trước Tây lịch - 20 Tây lịch ) tham
bác kinh Dịch và Đạo đức kinh mở ra ngành Lý số học sơ khai qua tác phẩm
Thái huyền kinh.
Đến
đời Tống sơ ( khoảng thế kỷ thứ 10 ) một nhân vật đạo gia kiêm nho gia
là Trần Đoàn tự là Đồ Nam, hiệu là Hi Di tiên sinh, tinh thông cả Lý Số
học của các nhà đi trước đã tổng hợp các kiến giả về lý Thái cực của vũ
trụ, lấy tượng số mà xét sự vận chuyển của Trời Đất, suy diễn ra hành
động của vạn vật rồi áp dụng các hệ quả của Lý thái cực vào Nhân tướng
học đế giải đoán tâm tình, vận số của con ngườ , mở đầu cho Lý Số và
Tướng số học.
Từ
đó về sau, quan niệm Âm Dương, Ngũ hành được áp dụng rộng rãi vào Nhân
tướng học và thành ra một thành tố bất khả phân trong tướng thuật.
b ) Nội dung của Thuyết âm Dương, Ngũ hành
Theo
cổ nhân Trung Hoa, lúc đầu vũ trụ chỉ là một khối hỗn độn, không có
hình dạng rõ ràng được gọi là thời Hỗn mạng. Trong sư Hỗn mạng đó, bàng
bạc cái lẽ vô linh linh diệu gọi là Thái cực. ( Sở dĩ gọi là Thái cực vì
nó huyền bí và vô tận nên không thể xác định rõ ban thế cuả nó ra sao).
Tuy
nhiên, dẫu không biết được chân tính và chân chất của cái lẽ Thái cực
huyền vì song ta có thể dựa vào sự quan sát về tính cách biến hoá của
vạn vật mà suy ra được cái đông thể của Thái cực. Căn bản của sự chuyển
biến hoá được biểu lộ bằng hai trạng thái tương phản là Động và Tĩnh.
Động gọi là Dương, Tĩnh gọi là Âm. Dương lên đến cực độ thì lại biến ra
Dương. Hai cái trạng thái tương đối của cái Bản thể nguyên khởi duy nhất
( Thái cực ) cứ tiếp diễn mãi, điều hợp với nhau, sinh sinh hoá hoá
không ngừng mà sinh ra Trời, Đất, Người cùng vạn vật. Vì Âm Dương phối
hợp, đun đẩy lẫn nhau nên có sự biến chuyển. Sự biến chuyển chính là nền
tảng của Dịch. Do đó, trong phần chú giải kinh Dịch, Khổng Tử đã nói “
Âm nhu Dương Cương, Cương nhu tương thôi sinh nhi biến hoá “(Nghĩa là Âm
thì mềm, Dương thì cứng, cứng mềm đun đẩy lẫn nhau chuyển hoá thành
thiên hình vạn trạng).
Theo cổ nhân, mỗi chu trình gồm bốn giai đoạn :
a ) Nguyên : Khởi đầu của sự biến hoá
b ) Hạnh : Sự thông đạt , hội hợp các thành tố
c ) Lợi : Sự thỏa đáng các điều kiện cần thiết cho sự tăng trưởng
d ) Trinh : Sự thành tựu chung cuộc của một chu trình sinh ra sự vật
Biến
hoá là ngoại biểu của Thái cực mà đạo Dịch căn cứ trên sự biến hoá của
vũ trụ và vạn vật. Do đó, Kinh Dịch mô tả diễn trình chuyển hoá (Dịch)
một cách khái quát như sau :
“
Dịch hữu Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng
sinh Bát quái, Bát quái sinh Ngũ hành : Đạo Dịch có nguồn gốc là Thái
cực, Thái cực sinh ra hai Nghi ( Âm và Dương ) hai Nghi sinh ra bốn
Tượng ( bốn trạng thái tượng trưng bằng bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông )
bốn tượng sinh ra tám Quẻ ( Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài )
tượng trưng cho Trời, Đầm, Lửa, Sấm, Gió, Nú, Nước, Đất ) tám Quẻ sinh
ra năm Hành ( năm loại nguyên tố cấu tạo ra vạn vật hữu hình Kim, Mộc,
Thủy, Hỏa, Thổ ).
Khởi
đầu của sự biến hoá rất đơn giản, rồi từ cái đơn giản đó mà chuyển hoá
dần dần để thành ra phồn tạp. Vì Âm Dương là hai thành tố đầu tiên của
vũ trụ, nên được Kinh Dịch chọn là biểu tượng căn bản và tượng trưng
bằng hai cái vạch đơn giản :
a ) Vạch liên tục tượng trưng cho Dương
b ) Vạch gián đoạn ( - - ) tượng trưng cho Âm
Trong
phép biến đổi hoá để sinh ra Bát quái, hai vạch tượng trưng cho Âm
Dương lần lượt chồng chất lên nhau theo nền tảng tam tài mà thành ra tám
Quẻ căn bản với hình dạng và ý nghĩa tượng trưng sau đây :
1 - Kiền tượng trưng cho Trời
2 - Đoài tượng trưng cho Đầm , Ao
3 - Ly tượng trưng cho Lửa
4 - Chấn tượng trưng cho Sấm
5 - Tốn tượng trưng cho Gió
6 - Cấn tượng trưng cho Núi
7 - Khảm tượng trưng cho Nước
8 - Khôn tượng trưng cho Đất
Đó
là tám Quẻ nguyên thủy gọi là “ Tiên thiên Bát quái “ do vua Phục Hy (
4477 - 4363 ) trước Tây lịch vạch ra để giải thích cái lẽ Âm Dương biến
hoá của Thái cực. Về sau vua Hạ Vũ (2205 - 2163 trước Tây lịch) đặt ra
Cửu trù ( chín pháp lớn ) phối hợp với Bát quái và tính cái số của Ngũ
hành trong việc giải thích lẽ biến hoá của vũ trụ và vạn vật.
Tới
đời Tây Chu, vua Văn Vương, trong thời gian bị giam ở ngục Dũ Lý (
khoảng thế kỷ 11 trước Tây lịch ) đã dành thì giờ nhàn rỗi diễn lại các
quẻ tiên thiên Bát quái của Phục Hy thành tám quẻ, Bát quái mới gọi là
hậu thiên Bát quái với các ý nghĩa thiên về nhân sự để dùng vào việc bói
toán và suy gẫm việc ngườ . Con Văn Vương là Chu Công Đán về sau có
giải thích thêm đôi chút về ý nghĩa và công dụng của kẻ Bát quái, nhưng
rất ngắn và mơ hồ, chỉ có các kẻ có thiên tư đặc biệt tâm truyền mới có
ánh mắt hiểu được. Tình trạng của Dịch lý từ thượng cổ đến trước khi
Khổng Tử ra đời chỉ có như thế mà thôi.
Đến
đời Đông Chu, Khổng Tử ( 511 - 478 trước Tây lịch ) đem kiến giảu cảu
mình bổ xung vào các điều truyền lại của Dịch lý đời Chu, san định lại
và viết thành Kinh Dịch trong đó bao gồm cả Âm Dương, Bát quái và Ngũ
hành.
Căn cứ theo ý nghĩa thông thường, cổ nhân gán cho Âm Dương Ngũ hành, các ý nghĩa tượng trưng sau đây :
Dương : Tượng trưng cho mặt trời, lửa, ánh sáng, sinh động, cứng cát, ban ngày, đàn ông …..
Âm : Tượng trưng cho mặt trăng, tối tăm, nguội lạnh, bất động, mềm nhão, ban đêm, đàn bà ….
Kim : Vàng, bạc, hiểu rộng ra là tất cả các chất kim thuộc
Mộc : Cây trong rừng, nói tổng quát ra là mọi thực vật trên mặt đất
Thủy : Nước và nói rộng ra là các chất lỏng
Hỏa : Lửa, hơi ấm
Thổ : Đất đá, nói chung Thổ bao gồm mọi loại khoáng chất trừ kim loại
Về
phương diện siêu hình. Âm Dương không phải là cái khí vật chất hữu hình
hữu thể mà chỉ là biểu thị tượng trưng cho hai trạng thái tương đối,
mâu thuẫn như nóng lạnh, sáng với tối, cứng với mềm, sinh với diệt, khoẻ
với yếu ….
Về
phương diện ý nghĩa siêu hình của Ngũ hành, ta cũng đi đến kết quả
tương tự Kim, Mộc, Thủy, Hoả, ngoài tìm cách vật chất của nó kể trên có
một ý nghĩa tượng trương có tính cách tương sinh tương khắc trong sự
biến hoá của muôn vật diễn ra hàng ngày trước mắt.
Trong
tướng học, người ta rất chú trọng đến Ngũ hành và thường hiểu Kim, Mộc,
Thủy, Hỏa, Thổ theo cả hai ý nghĩa : vật chất lẫn siêu hình qua sự
tượng hình chuyển ý của văn tự từ nghĩa hẹp đến nghĩa rộng.
c ) Ảnh hưởng của thuyết ngũ hành trong nhân sinh quan Trung Hoa
Từ
quan niệm là một lý thuyết triết học thuộc phần Hình nhi thượng từ đời
Tống trở đi, Âm Dương thuộc Ngũ hành được đem áp dụng vào lãnh vực Hình
nhi hạ. Đại đa số học giả Trung Hoa và các dân tộc Á Đông chịu ảnh hưởng
văn hoá sâu đậm của Trung Hoa đã dùng lý thuyết Ngũ Hành đem giải thích
và gán ghép các đặc tính của vật chất được siêu hình hoá của Kim, Mộc,
Thủy, Hỏa, Thổ vào các lãnh vực thường dụng của nhân loại, điển hình là
các trường hợp sau đây :
1 - Phương hướng, màu sắc, bốn mùa
1a ) Mộc tượng trưng cho Mùa Xuân, màu Xanh, phương Đông
Mùa
Xuân khí hậu mát mẻ như sương buổi ban mai, biểu hiện khởi đầu của một
chu trình biến hoá mới của vạn vận bắt đầu hồi sinh và tăng trưởng. Mặt
đất về Mùa Xuân, đâu đâu cũng một màu xanh thắm, Thái dương bắt đầu mọc ở
phương đông. Tất cả đều bàng bạc ý nghĩa của Âm Dương tương thôi với
Dương lấn lướt Âm một cách tương đối trong cái trung dung của Âm Dương (
Âm Dương tỷ hoà thì vạn vật mới sinh ). Do đó, cổ nhân đã lấy Mộc tượng
trưng cho mùa Xuân, màu Xanh, phương Đông.
1b ) Hỏa biểu thị mùa Hạ, màu Đỏ, phương Nam
Mùa
hè nóng nực bức như lửa thiêu, Dương cương lên đến cùng cực. Hoa lá đặc
trưng của mùa này như lụa và phượng vĩ trổ bông màu đỏ, phương Nam gần
như ấm áp quanh năm nên Hỏa tượng trưng cho mùa Hạ, màu Đỏ và
phương Nam vậy.
1c ) Kim tiêu biểu cho mùa Thu, màu Trắng, phương Tây
Mùa
Thu là giai đoạn cho Âm Dương tương thôi bình hoà khí trời nóng quá,
không lạnh lắm, nhưng Dương cương bắt đầu suy, Âm nhu bắt đầu thịnh. Mặt
trời lặn ở phương Tây sau khi đã mọc ở Phương Đông. Trời Mùa Thu thường
có mây trắng ngà bao phủ, nên cổ nhân mới nhân đó mà chọn Kim tiêu biểu
cho mùa Thu, màu trắng và phương Tây. Nói khác đi, theo Ngũ hành thì
mùa Thu, sắc trắng phương Tây thuộc Kim.
1d ) Thủy tiêu biểu cho mùa Đông , màu đen , phương Bắc
Hiện
tượng độc đáo nhất của mùa Đông là tuyết rơi, giá buốt, cảnh vật ảm
đạm, cửa nẻo đóng kín, tối tăm. Tuyết là một trạng thái của nước, phương
Bắc thường hay có tuyết nên với tinh thần tượng hình, chuyển ý, cổ nhân
Trung Hoa chọn hành Thủy để tượng trưng cho mùa Đông, màu Đen, phương
Bắc.
1e ) Thổ tiêu biểu cho Đất , màu Vàng , Trung ương
Người
Tàu phát tích ở lưu vực sông Hoàng Hà, đất đai ở đây màu vàng ( hoàng
thổ ) nên dựa vào sự vật để định tên, lấy đất tiêu biểu cho chất Thổ và
màu vàng tượng trưng cho sắc Thổ. Bởi người Tàu lấy địa phương của họ
làm trung tâm quan sát, tự coi mình là người trung Thổ, danh xưng là
Trung quốc nên màu vàng, vàng là màu trung ương, Thổ là Hành chủ bao gồm
cả bốn hành còn lại với lý do Địa tải sơn hà vạn vật ( Sông núi, muôn
loài vạn vật đều do đất chứa đựng ).
2 - Năm đức tính căn bản của con người
Trên
bình diện đạo đức, năm đức tính căn bản để phân định kẻ lương tri với
kẻ bại hoại là Nhân Nghĩa Lễ Trí và Tín, gọi chung là Ngũ thường. Dựa
vào ý nghĩa siêu hình của Ngũ hành và đặc tính bao quát của Ngũ thường
người ta đã đi đến chỗ Ngũ hành hoá Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín .
2a
) Nhân ứng với Mộc : Nhân chủ ở chỗ thanh tĩnh, ung dung tự tại, không
cạnh tranh bao dung và đãi người đồng đẳng. Thảo mộc, vốn không di động
cạnh tranh, loài tùng bách quanh năm xanh tươ , bất chấp gió sương, nóng
lạnh, tượng trưng cho thái độ an tĩnh, ung dung tự tại. Cây cỏ còn để
người che mưa tránh nắng, không phân biệt một ai. Hoa quả trong chốn sơn
lâm ai thưởng thức cũng được. Cái đức tự nhiên lưu hành của thảo mộc
tương tự như đức Nhân của bậc thức giả nên Mộc được coi là biểu tượng
của đức Nhân ở nhân loại. Do ở ý nghĩa mà Khổng Tử đã nói “ Nhân giả
nhạo sơn ( Bậc nhân giả thích núi ) vì trên núi có thảo mộc tượng trưng
cho đức Nhân của tạo vật.
2b
) Nghĩa ứng với Kim : Luôn luôn thích ứng với phép tắc thiên nhiên hoặc
công lý, hằng cửu, không biến chất, cứng cỏi không sờn. Đó là những ý
nghĩa bao quát của Nghĩa. Loài Kim thuộc như vàng luôn luôn giữ mãi vẻ
sáng cứng rắn, khuyết biết tiết, dù ở nơi này hay nơi khác, lúc nào cũng
vậy, phảng phất ý nghĩa của đức Nghĩa nên cổ nhân lấy Kim tượng trưng
cho Nghĩa.
2c
) Lễ ứng với Hỏa : Lễ gồm chung tất cả những gì soi sáng khuôn phép,
tạo nên tôn trọng duy trì diềng mối, phát huy chân lý tự nhiên lưu hành,
Tế tự là một hình thức cụ thể của Lễ, biểu dương sự tôn kính. Một trong
những cái ứng dụng của Hỏa là soi sáng tại nơi, làm hiển lộng cái tôn
kính quỷ thần của con người nên cái dụng ( về phương diện ý nghĩa triết
học ) của Hoả và Lễ tương đồng, nên Lễ ứng với Hoả.
2d
) Trí ứng với Thủy : Kẻ trí không điều gì là không thấu triệt, nước
không đâu là không thông qua. Cái đức của Trí và Nước có sự tương đồng
đại lược nên người xưa đã nói một cách đầy biểu tượng “ Trí giả nhao
Thủy “ ( Bậc trí giả thích nước ). Do đó, Thủy tượng trưng cho Trí.
2e)
Tín ứng với Thổ : Bản chất của Thổ là không bao giờ sai chạy. Thảo mộc
dựa vào đất mà sống và đất cứ theo từng mùa nhất định mà thúc đẩy sự
sinh diệt của cây cối theo đúng chu trình chuyển hoá tự nhiên của tạo
vật, không bao giờ sai chạy. Do đó, so với Tín thì bản chất của Tín và
Thổ về ý nghĩa tổng quát có những nét tướng đồng.
3 - Năm cung bậc trong âm nhạc
a ) Cung ( âm thấp nhất ) ứng với Thổ
b ) Thương ứng với Kim
c ) Giốc ứng với Mộc
d ) Chủy ứng với Hỏa
e ) Vũ ứng với Thủy
ỨNG DỤNG CỦA ÂM DƯƠNG TRONG TƯỚNG HỌC
Âm
Dương trong nhân tướng học không có tính cách cứng nhắc như thế nhân
vẫn tưởng mà lại rất tương đối. Ngửa lên gọi là Dương, úp xuống gọi là
Âm, cứng là Dương, mềm là Âm …….Nói một cách tổng quát thì Trời có Âm
Dương. Đàn ông được xem là Dương, đàn bà là Âm, nhưng chỉ là điều khái
lược. Trong mỗi con người lại cũng có phân biệt Âm và Dương nữa.
Toàn
thể thân thể đàn ông là Âm, nhưng bộ phận sinh dục lại là Dương nên có
tên là dương vật. Toàn thể đàn bà là Dương, nhưng bộ phận sinh dục lại
là Âm nên mới có danh là âm hộ.
Xương được coi là Dương, thịt được coi là Âm
Phía mặt bên trái là Dương, phía mặt bên phải là Âm
Phía trên của khuôn mặt ( kể từ chính giữa thần mũi ) thuộc Dương, phía dưới thuộc Âm.
Phần thân trước là Dương, phần thân sau là Âm
Trong khu vực thuộc mắt, phần trên là Dương, phần dưới coi là Âm, mắt trái là Dương, mắt phải là Âm
Những phần lồi lõm của xương khuôn mặt là Dương, những phần trũng xuống coi là Âm.
Dương
thì lộ liễu và hướng lên. Âm thì ẩn tàng và hướng xuống. Dương cốt ở an
hoà, Âm cốt ngay ngắn, Dương chủ về cứng rắn, Âm chủ về mềm mại.
Âm
Dương trong mỗi con người cần phải Hòa, phải Thuận, Hoà có nghĩa là
xương ngay ngắn, không lệch, không cong, thần khí thanh nhã. Thuận là
thịt phải được phân bố đều đặn khắp châu thân. Âm Dương thuận hoà chủ về
phúc thọ.
Nếu
như xương lộ mà không ngay ngắn, thịt chỗ nhiều chỗ ít không hợp lẽ tự
nhiên ( chẳng hạn bộ phận này quá nhiều thịt, bộ phận kia lại quá cằn
cỗi ) thì gọi là Âm Dương không thuận hoà. Hoặc Âm thịnh Dương suy (
thịt nhiều mà bệu, xương lại nhỏ và yếu, không cân xứng ) hoặc Dương
cường Âm nhược ( cốt lộ, thịt ít ) đều là các tướng phản lại nguyên tắc
Âm Dương thuận hoà: chủ về hung hiểm bất tường.
Nói
một cách tổng quát, vô luận nam nữ, trong mỗi con người ( hình tướng,
tính cách, khí sắc, thanh âm, phần vô hình cũng như phần hữu hình ) đều
bị nguyên lý Âm Dương chi phối.
Đàn
ông bản chất vốn Dương nhưng cần phải có Âm thích nghi điều hoà. Đàn bà
vốn thuộc Âm nhưng phải có Dương để phụ giúp. Nếu khống thế, đàn ông
chỉ có thể Dương thuần mà không có Âm chất thì sẽ mất sự khống chế cần
thiết, đàn bà chỉ có Âm nhung mà không có Dương chất thêm vào thì trở
thành quá mềm yếu và không tự tiến triển được.
Tuy
nhiên dù Dương thuận phải có Âm chất để điều hoà cho thích nghi nhưng
Âm không được lấn át phần Dương. Nếu Âm chất thái quá người ta gọi là
Dương sai.
Âm
nhu tuy phải cần Dương cương để tiết giảm phần xấu và phát huy phần tốt
nhưng nếu phần Dương lấn át hẳn phần Âm ( vốn là phần căn bản ) thì
trường hợp đó mệnh danh là Âm thác.
Nguyên
tắc tổng quát trên áp dụng cho tất cả các bộ vị trọng yếu trong con
người. Nghĩa là các bộ vị không được vi phạm các điều cấm kỵ của nguyên
lý Âm Dương thích nghi. Nói khác đi, không được phạm vào Âm thác hoặc
Dương sai. Đi sâu vào phần chi tiết ta phân biệt :
a ) Dương hoà :
Tính cách Dương mạnh mẽ nhưng được tiết chế đúng mức cần thiết thì gọi là Dương hoà, Dương hoà bao gồm :
-Đầu tròn, đỉnh đầu bằng phẳng
-Đầu hơi có góc cạnh, mặt hơi vuông vức, trán có xương tròn nổi lên rất rõ
-Ngũ nhạc nổi nhưng không quá lộ liễu, Sơn căn nổi khá cao gần ăn thẳng lên Aán đường
-Lông
mày mọc xếch lên cao và có uy lực, lông mày hơi có góc cạnh ( hình thù
lông mày gập cong lại như hình chữ, chứ không cong như hình bán nguyệt
hoặc thẳng như chữ )
-Sợi lông mày hơi hướng về phía trên
-Mắt có chiều dài rõ rệt và có tụ thần
-Sắc diện hoà ái, chẳng cần phải lập uy mà vẫn có vẻ oai nghiêm tự nhiên
-Nói
năng mau chậm thích nghi với từng câu chuyện, tư tưởng khoáng đạt, lâm
sự quyết đoán chuẩn xác, xử trí quang minh, đi đứng thung dung .
b ) Âm thuận
Tính cách Âm rất rõ ràng nhưng không quá ủy mị hèn yếu thì gọi là Âm thuận. Được coi là Âm thuận khi :
-Đầu tròn, mặt hơi vuông nhưng vẫn không xoá hẳn được những nét tròn trịa
-Ngũ nhạc đều có dáng phảng phất hình tròn ( nhưng không nổi bật các nét tròn đó )
-Sơn căn mạnh mẽ có thế. Aán đướng bằng phẳng, rộng
-Lông mày hơi cong mà mắt lại hơi dài ( không được quá dài )
-Tiếng nói hơi nhỏ nhưng âm thanh rổn rản trong trẻo
-Nói năng từ tốn, nhưng không chậm, phản ứng không nhanh nhưng không quá trễ hoặc lỳ lợm
-Sắc diện hoà nhã khiến người ngoài dễ sinh thiện cả
-Xử sự ôn hoà
c ) Kháng Dương
Tính cách Dương quá mạnh không có sự tiết chế đúng mức thì gọi là Kháng Dương. Các chỉ dấu của Kháng Dương bao gồm :
-Đầu tròn nhưng đỉnh đầu nhọn
-Mặt có những bộ vị nổi tròn thành từng cục
-Ngũ nhạc nổi tròn mà đầu có dạng nhọn, nhỏ
-Lông mày ngắn mà cong vòng hoặc ngắn mà thế của mày lại hướng lên
-Mắt lồi và tia mắt long lanh
-Tai nhọn và dựng đứng
-Tiếng nói lớn nhưng giọng điệu quê kệch hoặc giọng rè
-Tính
tình nóng nảy thô bạo, xử sự sơ xuất, không nghĩ trước, không lo sau
khiến người quan sát thoáng qua đã nhận được ngay sự thô lỗ .
d ) Cô Âm
Chỉ
có những cách Âm thuần túy mà không có Dương tính để hỗ trợ thì gọi là
Cô Âm. Đặc tính này được phát hiện ra ngoài qua các dấu hiệu sau đây :
-Toàn
thể đầu và khuôn mặt đều chỉ có hình vuông, hoặc thiên về hình vuông,
hoặc đầu lớn mà khuôn mặt lại quá nhỏ không tương xứng
-Chính diện thì nhìn thấy bằng phẳng mà trắc diện lại thấy ở phần giữa lõm xuống
-Mắt sâu mà lông mày mọc lan xuống tận bờ mắt hoặc mắt sâu mà xương lông mày thô, hoặc lông mày quá đậm mà ngắn
-Râu ria quá râm rạp, không thích nghi với tóc
-Tiếng nói như có vẻ khò khè ở cuống họng, điệu nói chậm rãi mà trong đó lại xen kẽ âm thanh chói tai hoặc thanh mà đứt đoạn
-Sắc
diện lúc nào cũng có vẻ u uất, xử sự quá tính toán, cân nhắc khiến
người ngoài thoáng thấy đã nhận ra ngay là con người ác hiểm.
e ) Âm thác, Dương sai
Bản
chất căn bản là Âm nhưng pha trộn quá nhiều Dương tính khiến phần Âm
trở thành thứ yếu thì gọi là Âm thác. Ngược lạ , bản chất căn bản là
Dương mà Dương tính quá yếu khiến Âm chất lấn át rõ rệt thì gọi là Dương
sai. Dưới đây là các dấu hiệu bề ngoài cảu các hiện tượng trên
-Đầu
tròn thuộc Dương, mặt vuông thuộc Âm, phía trước mặt thuộc Dương, phía
sau gáy ( ót ) thuộc Âm cho nên đầu lớn mặt nhỏ, phía trước lớn mà phía
sau nhỏ thì gọi là Dương sai
-Đầu vuông thuộc Âm, mặt tròn thuộc Dương, nếu như hai phần đó quá sai lệch thì gọi là Âm thác
-Phần
lồi trên khuôn mặt thuộc Dương, phần lõm trên khuôn mặt thuộc Âm . Do
đó, nếu Đông Tây Nam Bắc Nhạc nảy nở, cao ráo mà Trung nhạc lại trũng
xuống thì gọi là Dương sa . Trái lạ , bốn Nhạc phụ tuỳ đều trũng xuống
hoặc bị phá hãm chỉ có Trung nhạc nổi cao một mình thì gọi là Âm thác
-Chỉ có xương mà không có thịt, mắt lộ mà không có lông mày người lớn, tiếng nhỏ gọi là Dương sai
-Có
quá nhiều thịt mà thiếu xương, lông mày rậm rạp lam xuống bờ mắt, chân
tóc mọc thấp, Thiên thương hẹp, nhiều râu ria mà giọng nói khô khan
……đều được mệnh danh là Âm thác
-Mặt
tuy lớn, nhưng sắc ảm đạm, thân hình tuy có vẻ nam tính mà bước chân
lệch lạc ẻo lả như con gái thì gọi là Dương sa . Thân hình nữ mà cử chỉ
mạnh bạo cứng cỏi như nam giới thì gọi là Âm thác
Tóm
lại, vấn đề Âm thác, Dương sai rất phức tạp, khó mà lĩnh hội toàn vẹn
nếu không có kiến giải sâu rộng, quan sát tinh tế. Chương này chú trọng
đặc biệt đến hai nguyên tắc căn bản của Dương sai, Âm thác như sau :
1
- Đàn ông được gọi là thuần Dương mà lẫn lộn cá tính phụ nữ ( bất kể về
phương diện gì : đi, đứng, ăn, nói …..) khá rõ thì gọi là Chính Dương
sai
2 - Đàn bà được coi là thuần Âm nếu, pha trộn nam tính ( dù về phương diện gì cũng vậy ) quá lộ liễu thì gọi là Chính Âm thác
Từ hai nguyên tắc căn bản trên, ta đi đến bốn hệ luận :
a
) Bất kể nam, nữ đều lấy đầu, âm thanh, cốt cách tượng trưng cho Dương
chất. Cho nên, không cần biết thân hình lớn hay nhỏ, điểm căn bản là
phải lấy cốt cách trầm ổn, vững chãi, tiếng nói trong trẻo, rõ ràng có
tiếng vang làm chính. Được như thế là cát tướng
Tiếng
khô khan, âm vận không có hoặc ngắn ngủi thì dầu thân hình lớn hay nhỏ
đều không đáng kể gì tới vì đó là hung tướng, tượng trưng cho Dương sai.
b
) Bất kể nam nữ, đếu lấy khuôn mặt tượng trưng cho Dương, cho nên Ngũ
nhạc nổi rõ nhưng không quá lộ liễu thô bỉ, râu tóc và lông mày thích
nghi tương xứng là dấu hiệu cát tướng. Ngũ nhạc phá hãm, râu ria và lông
mày quá đậm là hung tướng vì đó bị gọi là Âm thác
c
) Thân hình to lớn khôi ngô mà khí phách nhỏ hẹp, xử sự thô lỗ, âm hiểm
tàn nhẫn, chấp nể tiểu tiết, không biết quyền biến, đó là Dương không
khống chế được Âm nên gọi là Dương sai
d
) Người nhỏ mà xử sự xô bồ không có giới hạn, khí phách cuồng ngạo chỉ
biết tiến mà không biết thoái lui khi cần thiết thì đó là Âm không kiềm
chế được Dương nên gọi là âm thác
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét