Tướng phụ nữ
a ) Tương quan giữa vài nét tướng mặt và cơ thể
Đời
Đường (618 - 907), Nhất Hạnh Thiền sư, một nhà tướng học khét tiếng
thời đó mà nay một phần tác phẩm về tướng vẫn còn được lưu truyền, có lẽ
là người đầu tiên phổ biến quan niệm cho rằng có thể căn cứ vào một số
nét tướng khuôn mặt để suy đoán ra các nét tướng trên thân mình. Để phân
biệt con người thưc tế với con người thu gọn trên khuôn mặt, thiền sư
mệnh danh hình ảnh đó là Tiểu Hình Nhân.
Trải
qua nhiều sóng gió của thời cuộc, công trình độc đáo của Nhất Hạnh
Thiền sư bị binh lửa Trung Nguyên làm thất truyền khiến cho các sách
tướng cổ điển của Trung Hoa không còn tài liệu độc đáo này. Tuy vậy, một
số người Nhật giao thương với Trung Hoa thời đó may mắn sưu tập được
một vài di cảo của Nhất Hạnh đem về nước nghiên cứu và phát huy thêm.
Thành thử, nguyên cảo Trung Hoa bị thất lạc chỉ còn lời đồn, may nhờ
Nhật giữ hộ mà không bị mai một vĩnh viễn. Từ công trình khảo sát sơ
khởi của Nhất Hạnh đem ra nghiên cứu tướng đàn bà bổ túc thêm cho hợp
với nữ giới. Người Trung Hoa đầu tiên du nhập lại kiến thức này là Tô
Lãng Trai, tác giả quyển Ngũ quan tướng tĩnh nghiên cứu. Những điều
trình bày trong mục này phần lớn căn cứ vào các tác phẩm của Ngũ Vị Trai
và Tô Lăng Thiên cả.
Muốn
có tiểu hình nhân ta lấy khuôn mặt làm mẫu mực, miệng là đầu, hai mi
cốt (xương lông mày) là hai chân, hai pháp lệnh là hai tay, nhân trung
là cổ, mũi là toàn thể thân mình.
1 - Hai cánh mũi
Phàm
hai cánh mũi phụ nữ cân xứng thì nhũ hoa cũng cân xứng. Hai cánh mũi
nẩy nở tròn trịa thì ngực nở, nhũ hoa lớn. Ngược lại, Chuẩn đầu thấp,
gián đài, đình uý nhỏ hẹp thì nhũ hoa cũng nhỏ hẹp. Đàn bà mũi xẹp cánh
mũi mỏng và nhỏ mà có bộ ngực núi lửa thì đó chẳng qua chỉ là phần nhân
tạo chứ không phải là phần thiên bẩm.
Hơn
nữa, màu sắc của hai cánh mũi còn cho ta biết được nữ giới hiện đang ở
thời kỳ kinh nguyệt hay không. Đang lúc hành kinh cánh mũi bao giờ cũng
có sắc ửng hồng mà ngày thường không có.
Những
điểm trình bày trên đây đúc kết từ những nhận xét của các nhà y học
nhằm mục đích giúp bạn trai những kiến thức giải hữu ích cần thiết tránh
được những hành vi tổn thương đến đời sống gia đình chỉ vì ngộ nhận
thiện chí của nhau.
Nói chung sơn căn cho ta biết phần co lưng, sống mũi cho ta biết nửa phần thân trên.
2 - Nhân trung
Nhân trung và môi miệng giúp ta biết được một cách khái quát về cơ cấu sinh dục cũng như khả năng sinh dục của phụ nữ.
Nói
một cách tổng quát muốn biết việc sinh sản dễ dàng hay khó khăn, ta cần
nhớ là : Nhân trung ngay ngắn, rõ ràng cộng thêm với lộc thượng, thực
thương, Tả Hữu Tiên Khố tề chỉnh, đầy đặn và cân xứng là những dấu hiệu
chắc chắn của việc sinh sản bình thường, ít gặp hiểm nghèo vì thai sản.
Hai
bờ nhân trung đàn bà đều rõ tạo thành hình dạng trên hẹp dưới rộng là
dấu hiệu nhiều con và sinh sản dễ. Nếu có thêm chỗ gần tiếp giáp với
miệng trũng xuống như vùng trâu đằm thì con trai ít hơn con gái. Nếu hai
lằn gồ cao của nhân trung gần giáp với môi trên lại nổi cao và rõ thì
sinh trai nhiều hơn gái.
Nhân
trung đàn bà trung bình và không có có đặc điểm trũng xuống hay nổi cao
vừa kể thì số con trai và gái gần như ngang nhau nhưng không quá nhiều.
Dĩ nhiên, những nhận định nào không áp dụng cho các trường hợp giải phẫu thẩm mỹ.
Nhân
trung quá mờ hoặc bị vạch ngang là dấu hiệu khá chắc chắn của kẻ có khả
năng sinh dục không đáng kể. Quá mờ lại có vạch ngang rõ rệt là tướng
không con vì lý do thiên nhiên bất túc.
3 - Nốt ruồi ở nhân trung
Nốt ruồi đàn bà xuất hiện ở nhân trung cũng là nét tướng có ý nghĩa quan trọng cần được đặc biệt lưu ý :
Bất
kể hình dạng Nhân trung ra sao bỗng nhiên có nốt ruồi đen đọng lại vị
trí 1, là tướng đoản mệnh, hay chết sớm vì thai sản hoặc bệnh liên quan
đến tử cung.
Nốt
ruồi ở vị trí 2 là dấu hiệu tử cung không được ổn, dễ bị bệnh phụ nữ.
Đồng thời về mặt mạng vận là điềm báo trước ít nhất cũng phải dang dở
hay tái giá mới được an thân. Nốt ruồi ở vị trí 3 dù lệch sang phải hay
trái, không liên hệ đến tử cung nhưng liên quan đến mật thiết đường tình
dục. Đàn bà có nốt ruồi đen như vậy phần lớn là không chung thuỷ, ít
khi thoả mãn tình dục với một người khác phái.
Nốt
ruồi ở vị trí số 4 dấu dâm đãng. Theo Ngũ vị trai, kẻ có nốt ruồi đó
nếu thêm mặt có đào hoa sắc thì trước khi kết hôn đã chung chạ chăn gối,
có chồng rồi vẫn còn bướm ngõ ong tường, chồng ra cửa trước rước người
tình ở sau. Về đường tử tức, ít khi có con. Thỉnh thỏang hoặc có thì về
già cũng cô độc kể như không có.
4 - Mội, Miệng
Tướng
học hiện đại Á Đông dựa trên các nhận xét của khoa học thân thể. Khác
với tiếng học gia thời xưa, các tướng học gia Nhật bản ngày nay cũng là
chuyên viên về y khoa và tâm lý. Nhờ đó, họ đã phong phú và hiện đại hoá
tướng học Á Đông rất nhiều
Tướng
học Nhạt Bản cho rằng người ta có thể căn cứ vào mặt bất cứ nam nữ mà
thôi cũng tạm đủ dữ kiện để phát đoán về toàn thể con người một cách
tổng quát. Đối với tượng phái hình thể này, khuôn mặt là hình thể rút
gọn của con người, từ khuôn mặt suy ra con người là một điều đáng rầt
phù hợp với thực tế, không có gì đáng gọi là thần bí hoang đường cả.
Tiếc thay quan điểm khoa học này bị một số người coi tướng giữ kín làm
bí quyết sinh nhai và cố tình bí hoá nó khiến cho đa số quần chúng ngộ
nhận là họ có tà thuật và coi tướng học như một môn thần bí học.
Môn phái Nhật Bản cho rằng Môi, Miệng và hạ thể có nhiều tương đồng với hình thể và màu sắc .
5-Tai
Vẫn theo tướng phái trên, rãnh tai và màu sắc của tai là dấu hiệu để xét định bộ phận sinh dục của phái nữ .
Theo
ngũ Vi Trai, tác giả cuốn Ngũ quan tướng tinh nghiên cứu vào những năm
trước khi xảy ra cuộc chiến tranh giữa Nhật Bản và Trung Hoa, ông ta đã
tự mình khảo nghiệm khoảng tám mươi trường hợp thực tiễn thấy rằng tuy
không đúng hẳn 100 % nhưng đại đa số những điều phát biểu về lý thuyết
đều phù hợp với thực tế .
b ) Những nét tường đặc trưng về phụ nữ của Viên Liễu Trang
Cổ
nhân Trung Hoa nặng đầu óc phong kiến, quá trọng nam quyền cho rằng chỉ
đàn ông mới thanh khiết, mới đáng trọng và đáng giữ vai trò chỉ huy
trong mọi lãnh vực sinh hoạt. Quan niệm chuyển thế “ trọng nam khinh nữ “
này buộc đàn bà phải lệ thuộc và phục tùng tuyệt đối ở đàn ông, ở nhà
phải nghe lời cha, lấy chồng phải nghe lời chồng, hoạt động gì (đặt biệt
là hoạt động ngoài đời lẫn chủ động trong đời sống tình dục). Nói khác
đi, dưới nhãn quang luân lý cổ điển khắt khe này, phụ nữ hoàn toàn bị
động, phải tỏ ra vô tài cán. Có như thế mới coi là có đức: vì tục ngữ
Trung Hoa : Nũ tử vô tài tiên thi đức (Con gái không có tài cán tức là
có đức vậy ). Người đàn bà được trời phú tính thông tuệ, tư tưởng độc
lập hoặc nhan sắc tự cho là mình có khả năng, không chịu hoàn toàn công
nhận quyền tuyệt đối của nam giới, muốn tham gia vào đời sống cộng đồng
một cách tương đối bình đẳng ( tỷ như nghề nghiệp tình dục ), muốn sống
theo lương tri và phát triển khả năng thiên phú theo ý riêng, dám bất
đồng ý kiến với chồng đều coi là hình khắc tư dâm .
7. 36 tướng hình khắc
-Tóc vàng khè, xoắn tít lại với nhau thành từng bụi một
-Tròng đen có màu vàng xậm ( như nước trà pha đặc ) tròng trắng đục đỏ
-Lưỡng quyền quá cao nhọn, lấn hết khuôn mặt và các bộ vị khác
-Trán nổi từng cục u nhỏ như ốc bám
-Trán cao, mặt hõm
-Trán có vằn sâu hoặc thẹo
-Ấn đường có hằn sâu dài chạy thẳng từ sơn căn lên trán , xung phá
-Tuổi trẻ mà tóc rụng quá nhiều
-Xương da khô, phá
-Mắt dài, miệng lớn quá mức
-Mặt gầy guộc nổi gân
-Mặt hình tam giác
-Tai chỉ có vành trong mà không có vành ngoài
-Mặt choắt, nhọn, eo bụng quá hẹp
-Sắc mặt khô xạm trì trệ như đất bùn
-Sơn căn thấp gẫy
-Cằm nghiêng lệch
-Cổ gầy, trơ xương nổi đốt
-Tiếng oang oang như tiếng sấm
-Tính nóng như lửa
-Thần khí thô trọc
-Trán rộng, cằm nhỏ và nhọn
-Mắt có khí sắc lốm đốm màu trắng
-Sống mũi nổi gân máu hoặc nổi đốt
-Thịt lạnh như nước đá
-Tay lớn, xương thô
-Vai lưng nghiêng lệch
-Mắt tròn và quá lớn
-Lộ hầu, răng như bàn cuốc
-Xương thô cứng, tóc rễ tre
-Đêm ngủ hay la hoảng
-Miệng như thổi lửa
-Lỗ mũi có lông dài thò ra ngoài
-Trán gồ, mang tai bạnh
-Xương che lỗ tai quá cao và đầy
-Mắt trắng bệch, không huyết sắc
-Tròng đen có màu vàng xậm ( như nước trà pha đặc ) tròng trắng đục đỏ
-Lưỡng quyền quá cao nhọn, lấn hết khuôn mặt và các bộ vị khác
-Trán nổi từng cục u nhỏ như ốc bám
-Trán cao, mặt hõm
-Trán có vằn sâu hoặc thẹo
-Ấn đường có hằn sâu dài chạy thẳng từ sơn căn lên trán , xung phá
-Tuổi trẻ mà tóc rụng quá nhiều
-Xương da khô, phá
-Mắt dài, miệng lớn quá mức
-Mặt gầy guộc nổi gân
-Mặt hình tam giác
-Tai chỉ có vành trong mà không có vành ngoài
-Mặt choắt, nhọn, eo bụng quá hẹp
-Sắc mặt khô xạm trì trệ như đất bùn
-Sơn căn thấp gẫy
-Cằm nghiêng lệch
-Cổ gầy, trơ xương nổi đốt
-Tiếng oang oang như tiếng sấm
-Tính nóng như lửa
-Thần khí thô trọc
-Trán rộng, cằm nhỏ và nhọn
-Mắt có khí sắc lốm đốm màu trắng
-Sống mũi nổi gân máu hoặc nổi đốt
-Thịt lạnh như nước đá
-Tay lớn, xương thô
-Vai lưng nghiêng lệch
-Mắt tròn và quá lớn
-Lộ hầu, răng như bàn cuốc
-Xương thô cứng, tóc rễ tre
-Đêm ngủ hay la hoảng
-Miệng như thổi lửa
-Lỗ mũi có lông dài thò ra ngoài
-Trán gồ, mang tai bạnh
-Xương che lỗ tai quá cao và đầy
-Mắt trắng bệch, không huyết sắc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét